CHÚA NHẬT III MÙA CHAY - B
Ga. 2, 13-25
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ - Lm. Px. Vũ Phan long, ofm ……….….…… |
02 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B – Lm Carôlô Hồ Bặc Xái ………………..…...…. |
15 |
CUỐN PHÚC ÂM HAY CUỐN PHIM – Lm. Mark Link, SJ ………………………. |
25 |
TẨY RỮA – Lm. Vũ Đình Tường ………………………………………..………… |
29 |
THANH TẨY ĐỀN THỜ – Lm. Giuse Hoàng Kim Toan ……………………..….. |
31 |
DẤU CHỈ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng ..………………………..…………………. |
34 |
NHÀ TA LÀ NHÀCẦU NGUYỆN – Lm. Trần Bình Trọng …………………..….. |
39 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Đinh Lập Liễm ............................ |
45 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ………………….. |
55 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR ……..… |
60 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B - Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR ………..……… |
63 |
ĐỪNG LÀM NHÀ CHA TA THÀNH NƠI BUÔN BÁN – Tuyết Mai …………….. |
65 |
SỰ LẠM DỤNG THÂN XÁC - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ………………………… |
70 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B – Lm. Ignatio Hồ Thông ………..…………….... |
73 |
THANH TẨY ĐỀN THỜ NƠI THÂN XÁC CHÚNG TA – Lm. Ignatio Trần Ngà . |
84 |
PHẢI BỊ THIỆT THÂN – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa …………………………. |
87 |
ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Học Viện Đaminh …………………………………………. |
91 |
VÌ NHIỆT TÂM VỚI VIỆC NHÀ CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP ….. |
93 |
BÀI ĐỌC THÊM …………………………………………………………..…………… |
99 |
NGHỊCH LÝ CÂY THẬP TỰ – Gm. Giuse Vũ Văn Thiên ………………..……… |
99 |
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình.
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL : Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải CôngGiáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
- Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
- Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
- Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- ... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
] Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Chủ Ðề: Vì thương, Thiên Chúa dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan. (Ga 2,17)
Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
- Thập giá Ðức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
- Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện ; b/ rất hữu ích cho cuộc sống ; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế Thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
4. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật".
Chính Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta không thể sống
Không có đau khổ, ta không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt hơn
Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời ; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý:
- Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
- Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
* 6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
«««
Tin mừng hôm nay thuật lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây:
- Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
- Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
- Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
- Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
«««
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em, nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa. Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã. Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế : Lạy Ðức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
CUỐN PHÚC ÂM HAY CUỐN PHIM
Chủ đề: "Các sách Tin Mừng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Chúa Giêsu, mà còn giải thích ý nghĩa của những ngôn từ và hành động ấy"
Lm. Mark Link, SJ
Giả như đội quay phim của đài truyền hình có thể vào trong một chiếc máy khuất phục thời gian để bay ngược trở lại hơn 2000 năm về trước, đến thời của Đức Giêsu đang sống. Giả như họ có thể quay phim cuộc đời của Đức Giêsu từ lúc sinh ra tới lúc Ngài sống lại. Và giả như họ có thể đem cuốn phim ấy trở lại trong cái máy khắc phục thời gian.
Hãy suy nghĩ về chuyện đó. Cuốn phim đó sẽ giúp chúng ta bước vào thế giới của Đức Giêsu đang sống một cách chính xác. Nó cho phép chúng ta nhìn thấy những người mà Đức Giêsu thấy, và tuyệt nhất là nó cho chúng ta thấy được chính Đức Giêsu. Nói cách khác, thay vì đọc bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta xem cuốn phim thời sự về Ngài. Và hiện tại chúng ta có thể thấy Đức Giêsu đang đuổi bọn buôn bán ra khỏi đền thờ. Chúng ta có thể thấy những biểu lộ trên gương mặt Ngài. Chúng ta có thể nghe được chính những lời Ngài nói ra.
Bây giờ bạn hãy cho phép tôi hỏi bạn một câu. Bạn có muốn đổi bốn cuốn Tin Mừng như chúng ta có hiện nay lấy cuốn phim như thế không? Giả sử rằng bạn không có thể có cả hai thứ. Bạn phải chọn một trong hai, cái này hoặc cái kia, bạn có muốn đổi các sách Tin Mừng lấy một cuốn phim như thế không?
«««
Nếu có ai đòi hỏi một chuyên gia nghiên cứu các sách Tin Mừng câu hỏi ấy, thì sẽ được ông trả lời: "Tôi muốn giữ lại bốn cuốn Tin Mừng". Ông giải thích rất hay. Ông bảo có rất nhiều người đồng thời với Đức Giêsu đã nghe và thấy những điều Chúa Giêsu nói và làm, nhưng họ không hiểu những lời ấy. Nếu chúng ta cũng chỉ có một cuốn phim về đời sống của Đức Giêsu, có thể cuối cùng chúng ta cũng sẽ hiểu lầm những điều Ngài nói và làm ấy. Chúng ta hãy lấy bài Tin Mừng hôm nay làm ví dụ.
Sau khi Chúa Giêsu đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ,. Các nhà lãnh đạo Do thái tới hỏi Ngài: "Ông làm gì để chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng ông có quyền làm như vậy không?". Chúa Giêsu trả lời; "Hãy phá đền thờ này đi, rồi trong ba ngày Ta sẽ xây lại". Họ hỏi Ngài: "Ông sẽ xây lại đền thờ này trong vòng 3 ngày sao? Ngày xưa tổ tiên ta phải xây mất 46 năm đấy! "
Sau khi mô tả cuộc đối thoại ấy, Thánh Gioan viết: "Nhưng đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thể xác Ngài. Vì thế, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lại rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Đức Giêsu đã nói". Nói khác, ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài muốn nói vào lúc đó. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang thì những điều ấy mới sáng tỏ.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ khác, chẳng hạn như những gì xảy ra vào ngày lễ lá, khi Đức Giêsu cưỡi lừa đi vào thành Giêrusalem. Sau khi mô tả quang cảnh ấy, Thánh Gioan viết: "Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài" (Ga 12: 16)
Cái gì sau đó đã xẩy ra cho các môn đệ khiến họ có thể hiểu được những điều ấy? Chính là những điều mà Đức Giêsu nói thì đã xẩy ra. Trước khi chết, Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài: "Đấng phù Trợ, tức Thánh linh", mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy cho các con mọi điều, và sẽ làm các con nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14: 26). Nói cách khác, những gì khiến cho bốn Phúc Âm có giá trị hơn cuốn phim, chính là những sách Tin Mừng ấy được viết trong ánh sáng của Chúa Thánh Linh khi Ngài đến vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Phúc Âm là kết quả của việc làm do Chúa Thánh Linh, nên không phải chỉ ghi lại lời nói và công việc của Đức Giêsu, mà còn ghi cả ý nghĩa sâu thẳm ở đàng sau những lời nói và hành động ấy. Tôi xin minh hoạ điểm này.
Chúng ta đã từng coi mục quảng cáo thương mại trên TV dành cho máy ảnh Polaroid có một cô gái chụp một tấm ảnh vào bữa tiệc mừng sinh nhật. Sau khi cô ta chụp xong, có một mảnh giấy trắng cuộn ra khỏi phía trước ống kính máy Polaroid. Không có gì trên tấm giấy đó cả. Nó vẫn trắng. Nhưng rồi đột nhiên trước mắt chúng ta, hình ảnh và mầu sắc bắt đầu xuất hiện trên tấm giấy trắng ấy. Mới đầu chúng còn mờ nhạt, nhưng lập tức chúng trở thành rõ sáng và sắc nét.
Những biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu cũng giống như vậy. Mới đầu chúng dường như giống một tờ giấy trắng, không có gì là đặc biệt cả. Nhưng sau biến cố lễ Ngũ tuần. Thánh linh soi sáng tâm trí các môn đệ Đức Giêsu về những biến cố trong cuộc đời của Ngài. Đột nhiên những ý nghĩa sâu xa của những biến cố này bắt đâu xuất hiện rồi rõ nét giống như hình ảnh trên tờ giấy Polaroid vậy. Sự khác biệt giữa sự hiểu biết của các tông đồ về những giáo huấn của Đức Giêsu trước và sau lễ Ngũ Tuần cũng rõ rệt giống như sự khác biệt giữa giấy Polaroid trước và sau khi nó được trưng ra ánh sáng. Vì thế bốn sách Tin Mừng được viết ra có giá trị hơn một cuốn phim như đã nói rất nhiều. Chúng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Đức Giêsu, mà còn giải thích cho chúng ta biết ý nghĩa của chúng. Bốn cuốn Tin Mừng là món quà của Thiên Chúa ban tặng chúng ta. Thánh Giêrônimô gọi những sách Tin Mừng là những "bức thư tình" của Thiên Chúa Cha gửi cho con cái Ngài ở dưới đất.
Mùa chay là một thời gian rất thuận lợi để chúng ta tái khám phá ra quyền năng và vẻ đẹp của bốn Phúc Âm đó. Đó là thời gian thuận lợi để chúng ta nghe Tin Mừng trong thánh lễ một cách chăm chú hơn và với nhiều yêu thương hơn. Quan trọng hơn, mùa chay là thời gian thuận lợi để tập trung cái nhìn của chúng ta vào Đức Giêsu, nhân vật chính của bốn Phúc Âm. Đó là thời gian để chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Nếu chúng ta làm như thế, Ngài sẽ tỏ mình ra cho chúng ta vào Chúa Nhật Phục Sinh một cách hoàn toàn mới mẻ, giống như Ngài đã tỏ mình ra cho các môn đệ Ngài vậy.
Để kết thúc chúng ta hãy cầu nguyện. Hãy cám ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một món quà là Bốn cuốn Tin Mừng và hãy xin Ngài giúp chúng ta tin tưởng sâu xa hơn vào những cuốn sách đó. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cám ơn Cha đã ban cho chúng con món quà là bốn cuốn Phúc Âm. Xin hãy giúp chúng con yêu mến và quí trọng những cuốn sách đó. Xin hãy giúp chúng con biết cách tự đặt mình vào địa vị các tông đồ để chúng con có thể nhìn và nghe những gì các ngài đã nhìn và đã nghe. Nhất là xin giúp chúng con sống theo bốn cuốn Tin Mừng đó. Xin hãy chỉ cho chúng con biết cách áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, để khi cuộc sống này hết hạn, chúng con sẽ được tham dự vào sự sống của Cha đến muôn muôn đời.
Lm. Mark Link, SJ
TẨY RỮA
Lm. Vũ Đình Tường
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ‘ buôn bán hay chợ búa’. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
Lm. Vũ Đình Tường
THANH TẨY ĐỀN THỜ
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Liên quan đến thanh tẩy gồm có nước, lửa và máu. Nhơ uế làm ô nhiễm môi trường, tẩy uế nhằm đưa lại trạng thái thanh khiết, dứt bỏ tội lỗi do những quyến luyến trần tục, khơi lại nguồn cội của sự sống. Đền thờ trong khi đó là phản chiếu của đời sống thiêng liêng lại bị trần tục hoá bằng cảnh mua bán, đổi chác... Chúa Giêsu đến thanh tẩy Đền Thờ, hành vi và ý nghĩa việc Chúa làm.
Đền thờ vật chất
Chúa Giêsu đi vào Đền thờ với một tư cách chủ nhân mới của Đền thờ. Đền thờ do các Thượng tế dâng lễ vật sẽ không còn nữa: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi. Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10,11-12). Chúa Giêsu là Thượng Tế mới, Người cai quản Đền thờ đích thực, mọi hy lễ chiên, bò đều không còn cần thiết nữa, chỉ cần thiết một hiến lễ mới là “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền”. Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,8-9). Như vậy, Việc thanh tẩy Đền thờ mang một ý nghĩa trọng đại, không chỉ là việc Chúa xô đổ bàn đổi chác, người buôn bán ra khỏi Đền thờ, mà trong hy lễ mới, một hy lễ bằng máu, chính Người thiết lập, mỗi người hãy dâng hiến chính thân mình làm của lễ, tháp nhập cùng Chúa Giêsu trong hiến lễ của Người dâng lên Chúa Cha.
Tẩy uế Đền thờ, theo một nghĩa khác, Chúa Giêsu mời gọi: “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). “Đừng biến nhà Thiên Chúa thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Tục hoá đi vào thánh thiêng qua lối mua bán, rơi vào lĩnh vực tài chính. Ân sủng trở nên món hàng mua bán, Đền thờ thành nơi rửa tiền để lương tâm được nhẹ bớt. Các thượng tế trở thành kẻ rao bán, mị dân, thu về lợi nhuận. Điều chính yếu là sám hối, từ bỏ tội lỗi thì làm cho chiếu lệ. Tâm hồn càng ngày càng vẩn đục bởi khối lượng vật chất, lối sống hưởng thụ, ăn nói kiêu căng: “Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,10).
Tẩy uế Đền thờ, còn là thanh tẩy các mối tương quan giữa con người với nhau. Không phải là tương quan giữa trao đổi, đổi chác vật chất, mua bán, tranh giành mà bằng tương quan “nhân từ”, “hãy có lòng nhân từ” (Lc 6,36).
Đền thờ tâm hồn
“Thân xác là Đền thờ Thiên Chúa” (1 Cr 6,19), bởi thế tâm hồn không là nơi chứa đựng tội lỗi, thân xác không là nơi hưởng thụ. Thanh tẩy Đền thờ thân xác là con đường từ bỏ tội lỗi, dọn dẹp tâm hồn, cái xấu ở bên trong con người mà ra: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,20).
Lửa trong tâm hồn con người đã thiêu cháy bằng ngọn lửa dục vọng của thân xác, ngọn lửa thần linh từ ấy cũng tắt dần đi. Ai có thể thắp lại ngọn lửa khát khao điều công chính và ngọn lửa yêu mến Chúa. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,49). Như vậy, sự chết trên Thập giá của Chúa Giêsu cũng là lửa để thanh luyện, thắp lại cho tâm hồn con người đã nguội lạnh.
Ai có thể thanh tẩy tâm hồn con người chúng ta, nếu không phải là Thiên Chúa. Nếu vậy, việc Chúa đến xua đuổi quân buôn bán trong Đền thờ thân xác con người, là một ân ban đặc biệt vì Người còn để tâm đến.
“Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ. Tôi chắc kho tàng vô giá ấy ở trong anh và anh là người bạn thân tôi nhất, song tôi nào dám quét khỏi phòng mình lớp ngân tuyến phủ che. Vải liệm bao thân tôi là khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng. Tôi nợ nần nhiều lắm, tôi thất bại lớn lao, tôi xấu hổ âm thầm và ê chề sạn mặt, tuy nhiên khi tới hỏi xin lạc phúc, tôi lại run rẩy sợ lo, những e lời nguyện cầu được chấp nhận” (R. Tagore, Lời dâng, bài 28).
Con người tự mình không thể chiến thắng tội lỗi, bởi thế, Chúa Giêsu nói đến sự phá huỷ đền thờ thân xác, Người sẽ xây dựng lại Đền thờ thân xác mới trong 3 ngày. Người muốn nói đến chính Người chiến thắng sự chết là hậu quả nghiêm trọng của tội lỗi. Mang lấy thân xác mới của Chúa Giêsu để chiến thắng tội lỗi nơi mình. Chúng ta chiến thắng được tội lỗi là nhờ Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Thanh tẩy bằng nước, bằng lửa và bằng máu. Chúa đã thực hiện tất cả trên Thập giá vì chỉ muốn yêu thương con người và được yêu thương con người. Xin Chúa hãy đến thanh tẩy chúng con.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
DẤU CHỈ
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã truyền dạy các giới răn cho dân Do-thái qua ông Môisen. Biến cố Xuất Hành ra khỏi nước Ai-cập là một biến cố vĩ đại. Từ cuộc xuất hành Vượt Qua biển đỏ, Thiên Chúa đã chọn người Do-thái làm dân riêng. Từng bước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân. Thiên Chúa đòi hỏi dân riêng sẽ chỉ tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, Chúa hùng mạnh và Chúa ganh tị. Chúa sẽ tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến và tuân giữ các giới răn. Thiên Chúa đã trao ban Mười Giới Răn cho ông Môisen để hướng dẫn dân riêng đi trong đường lối của Chúa. Thập giới này là những luật lệ căn bản của con người mọi thời. Những điều răn này cũng được khắc ghi trong lương tâm của mỗi người. Bản kinh Thập Giới gồm tóm những điều cơ bản giúp con người tìm về nguồn chính thật. Mười Giới Răn được phân ra: Tôn thờ Thiên Chúa, tôn kính cha mẹ và hoàn thiện bản thân.
Dân Chúa đã chọn phải lưu lạc suốt bốn mươi năm trong hoang địa. Chúa dùng thời gian này để thanh tẩy, luyện lọc và dậy dỗ họ mọi điều. Tất cả các giới răn, những huấn lệnh và những luật lệ về đời sống tâm linh được hình thành trong thời gian này. Cuộc sống đời thường của Dân riêng hoàn toàn phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Trong cuộc hành trình, Chúa ban Manna và chim cút làm của ăn. Chúa ban nước uống qua các nguồn suối tươi mát. Sau bốn mươi năm lang thang trong sa mạc, đại đa số những người xuất hành từ Ai-cập đã trở về lòng đất. Một dòng dõi mới xuất hiện cưu mang những lời hứa và lệnh truyền của Chúa. Chúa bảo vệ, chăm sóc và cùng chiến đấu với họ để tiến vào miền Đất Hứa, nơi chảy sữa và mật. Thiên Chúa không ngừng nhắc nhở họ về các biến cố đã xảy ra trên đường lữ hành. Chúa đã chọn họ làm dân riêng để chuẩn bị đón chờ Đấng Cứu Thế giáng trần. Thiên Chúa luôn trung thành với các giao ước và thực hành những lời Chúa đã hứa qua các thời đại.
Qua lịch sử cứu độ, dân Chúa chọn đã nhiều lần thay lòng đổi dạ. Rất nhiều lần họ bỏ Chúa, đi thờ các bụt thần ngoại bang. Họ sống theo thói tục của người ngoại giáo. Chúa đã phạt họ phải lưu đầy xa xứ, nhưng rồi Chúa lại thương tha thứ cho trở về quê hương xứ sở. Các sự cố được lập đi lập lại qua sự yếu đuối của con người. Chương trình cứu độ cứ tiệm tiến từ dòng dõi này qua dòng dõi khác kéo dài cả ngàn năm. Khi Dân đi tìm kiếm sự khôn ngoan của người đời, họ đã bị thất vọng với sự trống rỗng. Các bụt thần gỗ đá và các tượng thần do bàn tay con người tạo nên, chỉ là để thỏa mãn những nhu cầu chóng qua và đòi hỏi bản năng thấp hèn của con người. Không có thần nào khác có thể làm cho con người thỏa mãn mọi khao khát thầm kín sâu thẳm trong tâm hồn. Chỉ những ai biết tìm về chính nguồn sự khôn ngoan đích thật, họ mới được an nghỉ và toại nguyện trí lòng.
Qua mọi thời, với lý trí, ý chí và tự do, con người đi tìm sự khôn ngoan để định hướng đời sống. Đã có biết bao nhiêu suy tư tìm kiếm tầm đạo, các triết thuyết, các trường phái góp phần đào sâu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người. Sự khôn ngoan của con người không thể giải đáp thỏa mãn được tất cả các ẩn số, thắc mắc và khát vọng sâu thẳm của con người. Trong thơ gởi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Các người Do-thái đòi hỏi dấu lạ, những người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh trên thập giá. Sự khôn ngoan của thập giá vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người. Đây là một mầu nhiệm, mầu nhiệm của ơn cứu độ, mầu nhiệm của tình yêu và là sự khôn ngoan tuyệt đối. Con người sẽ không có khả năng hiểu thấu về mầu nhiệm hy sinh thập giá của Chúa Giêsu Kitô.
Bài phúc âm, thánh Gioan kể câu truyện Chúa Giêsu lên Giêrusalem và vào trong đền thờ. Chúa Giêsu thấy có những người bán bò, chiên, bồ câu và cả người đổi tiền. Chúa đã bện giây đánh đuổi bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người Do-thái hỏi Người: Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu chỉ gì là ông có quyền làm như vậy? Chúa Giêsu trả lời: Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại. Không ai hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì và ám chỉ điều chi. Họ chỉ thách thức và đặt câu hỏi. Không ai dám ra tay ngăn cản, bắt bớ hay luận phạt về hành động của Chúa Giêsu. Chúa đã hành động nhiệt thành với cả tâm tình sốt mến lo cho nhà Chúa.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu là dấu chỉ tuyệt vời. Ngài đã mạc khải về sự khôn ngoan thật của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: Điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người. Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu lạ qua bàn tay uy quyền. Chúa Giêsu khai mở một con đường mới, con đường của tình yêu. Chúa đã lấy chính sự sống mình để lập giao ước mới. Giao ước mới được ký kết bằng chính Mình và Máu Thánh Người. Chúa Giêsu không xóa bỏ giao ước và các giới răn của đạo cũ nhưng làm cho mọi sự nên hoàn thiện.
Thuở xưa, Thiên Chúa luôn nhắc nhở dân riêng rằng: Ta là Thiên Chúa các ngươi, Ta đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi làm nô lệ vào miền Đất Hứa. Các ngươi không được tôn thờ chúa nào khác, không được lạm danh Chúa một cách vô cớ và giữ ngày Sabát. Thời Tân Ước, Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta ra khỏi miền thâm u tối tăm của tội lỗi, sự dữ và sự chết và đi vào trong miền ánh sáng, sự thật, tự do và chân lý. Chúa đến cư ngụ giữa chúng ta và trở nên bạn hữu thân tình. Chúng ta gọi Chúa là Cha, là Thầy và là Chúa. Chúng ta dâng hiến ngày Chúa Nhật để tưởng nhớ việc Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu độ chúng ta.
Thời Cựu Ước, qua các giới răn, Thiên Chúa dậy rằng phải thảo kính cha mẹ, không được giết người, không phạm tội ngoại tình, không trộm cướp, không gian dối và không muốn của người khác. Đạo lý Tân Ước dậy chúng ta cách tích cực hơn: Hãy thảo kính, yêu thương và chăm sóc ủi an cha mẹ. Hãy yêu thương đồng loại như chính mình. Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét và làm hại. Không đoán xét và không kết án. Không ăn gian nói dối, có thì nói có và không thì nói không. Đừng làm tổn thương danh dự người khác. Không chửi rủa anh chị em là khùng, là ngốc. Hãy tha thứ để được thứ tha. Đời sống vợ chồng phải gắn bó thương yêu, trung tín, nâng đỡ và giúp nhau nên trọn lành. Sự chân thật và công bình trong cách cư xử và giao tế sẽ xây dựng tình liên đới và tôn trọng lẫn nhau. Vì tình bác ái không biên giới sẽ là nhịp cầu giúp chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp trong tình yêu.
Chúa Giêsu rao giảng tin mừng cứu độ. Tin mừng là rượu mới phải đổ vào bình da mới. Chúa truyền dậy gồm tóm trong hai giới luật quan trọng nhất là: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác như chính mình. Nơi đâu còn có ganh tị, thù hằn và bạo lực, nơi đó đang vắng bóng tình yêu đích thực. Tin mừng dành cho những ai có trái tim mở rộng biết đón nhận yêu thương. Chúa Giêsu đã hiến trọn cuộc đời để minh chứng tình yêu cao cả. Không có tình yêu, sẽ không có ơn cứu rỗi. Không có tình yêu, thế giới con người sẽ bị lặng chìm trong đau thương của thù hận, chia rẽ và hủy hoại. Không có tình yêu, mọi thực hành tôn giáo trở thành trống rỗng và vô ích. Không có tình yêu, cuộc đời con người sẽ đi vào sự cô đơn bất hạnh. Đạo của Chúa là đạo của tình yêu thương. Hy tế thập giá là đỉnh cao của tình yêu dâng hiến. Tình yêu thập giá là sự khôn ngoan tuyệt diệu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, trong Mùa Chay Thánh này, xin cho chúng con biết tìm kiếm sự khôn ngoan đích thực nơi Chúa. Vì yêu, Chúa đã hiến thân trên thập giá để cứu độ chúng con. Đối với người đời, sự hy sinh thập giá của Chúa là sự điên rồ nhưng với người tín hữu, thập giá là lễ hy tế và là giá cứu độ. Xin cho chúng con nhận biết bài học vô giá nơi thánh giá của Chúa. Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
NHÀ TA LÀ NHÀCẦU NGUYỆN
Lm. Trần Bình Trọng
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ?
Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46).
Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện. Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.
Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài. Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu. Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị. Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa, và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông của đời con. Amen.
Lm. Trần Bình Trọng
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy:”Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh:”Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi”(Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA.
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ:”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do :
a) Những khách hành hương.
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2 .200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ.
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền.
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ.
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ:”Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”(Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ:”Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp”(Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA.
1. Hai loại đền thờ.
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái :”Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành ? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói : Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất.
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng.
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói :”Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta.
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta :”Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi”(Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa.
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất.
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý : nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý , ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa : chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cửû chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ.
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng : Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi ? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói:”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ : Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công : Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ.
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay : hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu :
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ: Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em. nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.(Theo Flor McCarthy)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.
1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
2. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
3. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Ngày xưa Giêrusalem là Nhà thờ lớn, là nơi hành hương, là nơi muôn dân qui tụ về dâng lễ, cầu kinh. Ngày nay, mọi Đền thờ đều là nhà của Thiên Chúa, là nơi để cầu nguyện. Tin mừng của thánh Gioan hôm nay, cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ làm ô uế Đền thờ và Ngài chỉ ra Ngài chính là Đền thờ…
Lần đầu tiên chúng ta thấy Chúa Giêsu nổi giận đối với những người buôn bán nơi Đền thờ Giêrusalem như đang buôn bán chiên, bò, bồ câu và đặc biệt Chúa Giêsu lật đổ bàn ghế của những người đổi tiền bạc. Đây là cơn giận thánh của Chúa Giêsu bởi vì Ngài vẫn nói với các môn đệ: ” Hãy học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhượng”.Chúa Giêsu luôn bình thản trước những lời vua oan cáo vạ Ngài, trước những sự phản bội trắng trợn Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tức giận, tỏ thái độ nghiêm khắc với những kẻ buôn bán, đổi chác tiền bạc dù rằng những ấy chỉ diễn ra nơi tiền đình Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu vẫn cương quyết chống đối lại những người này vì Ngài cho rằng nó gây ồn ào, bất kính đối với Đền thờ, nơi Ngài cho là nhà của Cha Ngài. Ngài luôn tôn kính Đền thờ và Ngài không muốn con người xúc phạm đến Đền thờ, đến Nhà của Cha Ngài, nơi đây người ta hành hương, đi dâng lễ cầu kinh và cầu nguyện. Chúa Giêsu không chấp nhận việc con người làm cho Đền thờ ra ô uế. Chúa Giêsu thấy cần phải thanh tẩy Đền thờ dù rằng Ngài biết việc ấy sẽ gây nguy hại cho tính mạng của Ngài. Ngài nói: ” Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây” (Ga 2, 16 ). Đem tất cả những thứ ấy ra khỏi nơi thờ phượng bởi vì chúng xúc phạm đến Cha của Ngài, xúc phạm đến chính thân xác, đến con người của Chúa Giêsu. Ngài muốn nơi thờ phượng phải là nơi tôn nghiêm, nơi tĩnh lặng, nơi thanh vắng, nơi con người, nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa.
Người Do Thái lúc đó đâu có hiểu Ngài, đâu có nhận ra Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ trần gian. Do đó, họ vặn lại Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã nói thẳng thừng với họ: ” Cứ phá hủy Đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại “ (Ga 2, 19 ). Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng nào đâu họ có hiểu ! Và Đền thờ ở đây, Đền thờ Ngài nói tới là chính thân xác của Ngài, thân xác sống lại của Ngài sẽ là Đền thờ mới, nơi toàn thể nhân loại sẽ thờ phượng cách đích thực.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, nhưng đồng thời Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta và thanh tẩy các nhà thờ, các nơi thờ phượng của chúng ta bởi vì tâm hồn chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, nhưng nhiều khi chúng ta đã để chúng ra ô uế, do tội lỗi, do những bất xứng chúng ta xúc phạm đến Chúa. Nhiều nơi thờ phượng, nhiều nhà thờ chúng ta xây dựng hoành tráng, to tát bên ngoài nhưng việc đạo đức nhiều khi không đúng ý Chúa. Nhiều nơi tổ chức linh đình bề ngoài nhưng bề trong lại xa Chúa. Do đó, Chúa muốn chúng ta thanh tẩy nội tâm, thanh tẩy những gì bề ngoài không phù hợp với ý của Chúa vv…
Mỗi thánh lễ nơi một nhà thờ nào đó, chúng ta hiệp dâng cùng với linh mục. Chúng ta hiểu rõ rằng qua bí tích rửa tội chúng ta được tháp nhập vào trong Hội Thánh, và như thế, chúng ta được hội nhập, được tháp nhập vào một Đền thờ mới là chính thân xác phục sinh của Chúa. Nhà thờ là nơi thờ kính, là nơi cầu nguyện, là nơi tôn kính Chúa Cha qua Đức Kitô. Nhà thờ này còn quý giá hơn cả Đền thánh Giêrusalem xưa vì Đền thờ bây giờ chính là Con người Chúa Giêsu đã kinh qua cái chết và phục sinh.
Chúng ta luôn phải hiểu rõ rằng Đền thờ, nơi Thờ phượng hằng ngày chúng ta lui tới là nơi Chúa Giêsu ngự, là nơi Ngài qui tụ chúng ta lại và là nơi Ngài gặp gỡ chúng ta và ngược lại chúng ta được diễm phúc gặp gỡ Ngài. Nhà thờ còn là nơi có những mối quan hệ mật thiết với mỗi Kitô hữu hơn bất cứ nơi nao bởi đó là nơi có những kỷ niệm êm đềm nhất từ lúc chúng ta sinh ra cho đến khi chúng ta lìa đời. Nhà thờ là di sản quí báu của tổ tiên, cha ông chúng ta để lại.Nhà thờ là nơi qui tụ, họp mặt mọi người ta xứ họ để cảm tạ Thiên Chúa và xin ơn với Ngài. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ, bảo vệ và thanh tẩy Nhà thờ sao cho đẹp lòng Chúa và hợp với ý của Chúa.
Chúa đã phán: ”Khi Danh Ta hiển thánh nơi các ngươi, Ta sẽ tập trung các ngươi lại Từ khắp mọi nơi trên mặt đất. Trên các ngươi, Ta sẽ rảy nước trong ngần, Và mọi vết nhơ của các ngươi sẽ được tẩy sạch, Ta sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi“ (Ed 36, 23-26).
Lạy Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Đền thờ Giêrusalem là nơi qui tụ những ai?
- Giêrusalem trên nghĩa là gì?
- Tại sao lại phải thanh tẩy tâm hồn?
- Chúng ta phải có bổn phận và nghĩa vụ làm sao đối với Nhà thờ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
ĐỪNG LÀM NHÀ CHA TA
THÀNH NƠI BUÔN BÁN
Tuyết Mai
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"(Ga 2,13-25).
Bài Đọc của tuần này làm tôi liên tưởng liền đến Bàn Thờ Tâm Hồn của chúng ta. Có phải tâm hồn của chúng ta hiện giờ y như là nơi buôn bán và đổi chác hằng ngày mà ít ai chịu để ý đấy hay không? Hay nói một cách khác là chúng ta cố tình không muốn nhắc đến để động đến tội lỗi của chúng ta, mà vô hình chung, chúng ta đã dần dần mời Chúa ra ngoài và thần dữ đã chễm chệ đột ngột đổi ngôi lúc nào trong tâm hồn chúng ta cũng không hay biết?. Vâng, thưa quả thật là y như thế! Bản tánh của con người thì ở thời đại nào cũng chỉ có thấy thờ Thiên Chúa ở trên môi trên miệng chứ Đền Thờ của Thiên Chúa không qua khỏi được chuyện lo làm tiền và làm giầu.
Tâm hồn của chúng ta mỗi ngày phải bận rộn, nhọc nhằn, suy nghĩ, lo lắng, bận tâm, bương chải, chạy ngược chạy xuôi, cũng chỉ mong cho được có bấy nhiêu. Lúc thật nhỏ còn ngồi mài đũng quần ở nhà trường thì được trong gia đình và thầy cô dậy dỗ cho là phải học thật giỏi thật xuất sắc để lớn lên làm được thật là nhiều tiền để muốn gì được nấy. Dậy dỗ con cái phải biết sống khôn ngoan để không thua thiệt bất cứ ai khi ra ngoài đời ngoài xã hội. Cho nên hễ ai khoẻ thì áp bức kẻ yếu không biết trên kính dưới nhường là gì. Và cái câu mà chúng ta thường được nghe thiên hạ những ai có tánh bi quan khi mình là người đến trễ hay là người đến sau người ta, than thân trách phận rằng: "Trâu chậm uống nước đục".
Tôi không thích câu nói này mấy khi nghe ai nói, bởi nó làm cho tôi có cảm tưởng cuộc sống quả tranh dành và bon chen. Một là thuộc loại người làm biếng nên không thích mất thời giờ ra đứng xếp hàng chờ để mua bán, để nộp đơn, để ghi danh, để xin việc làm, để.. .. mà chần chờ lai vãng đâu đó cho qua thời giờ và đến chậm trễ nên thường là bị đóng cửa, hết đồ tốt, không nhận đơn nữa vì đã đủ, hết hàng, v.v....; sau đó quay qua than với người này rồi than thở với người kia.. .. Hai là thuộc loại người bon chen lấn lướt không biết trên dưới trước sau là gì, miễn là mình được có trước là được. Mà không những có trước là được là xong là đủ đâu! Chẳng những có trước mà lại còn muốn tranh dành hết của những người đứng sau hay tới sau. Tận cùng mà xét ra thì không biết cái lỗi và cái tật xấu tranh dành, bon chen, lấn lướt này, bắt nguồn từ đâu mà có?. Cho nên con trẻ được học từ nơi cha mẹ, cô chú bác, anh chị em, bạn bè, học đường, và ngoài xã hội, những bản tánh thật xấu xa mà không nghĩ rằng đó là Tội. Cho nên chúng ta đã quen sống như thế từ nhỏ thì hình như mình và Đền Thờ Chúa là hai vấn đề hẳn là khác nhau!?
Khi nào tôi đến Nhà Thờ (Nhà Chúa) thì tôi khoác lên chiếc áo đến thăm Chúa một cách rõ ràng cho thiên hạ thấy rằng tôi nghiêm trang và đúng đắn, không quay ngang quay dọc, không nói chuyện riêng, theo dõi thật kỹ những gì vị Linh Mục làm trên Bàn Thờ. Đến giờ thì tôi cũng Rước Lễ như ai. Tôi cũng ráng ở lại cho đến khi Cha ban bình an của Chúa xong tôi mới ra về, và đó là những gì tôi đã làm những ngày Chủ Nhật tôi mang tâm tình để đến với Chúa của tôi. Còn ngoài ngày giờ tôi đi dự Thánh Lễ ra thì con người thật của tôi và của anh chị em ra sao?. Có phải diễn ra y như những sự việc buôn bán và đổi chác mà Chúa Giêsu đã phải giận dữ, quát mắng, và dùng roi mà quất ngả mọi thứ trong Đền Thờ đấy không?. Ai bảo con người là hiền lành, đạo đức, và thánh thiện?. Thưa duy nhất chỉ có Chúa Giêsu mà thôi!. Còn con người của chúng ta thì muôn đời là tội lỗi và đớn hèn trước mặt Thiên Chúa. Con người tội lỗi truy lại từ đời của ông bà tổ phụ Adong và Eva kia cơ mà, thì làm sao chúng ta khác hơn hai ông bà được cơ chứ!?.
Có phải tâm hồn của chúng ta luôn rối rắm, như cái tổ vò, như len rối, như mắc cưởi, như muôn ngàn sợi tơ ngang dọc của màng nhện giăng để giăng mắc những điều không muốn được nên Thiện nên lành thánh hay nên Thánh?. Như thế thử hỏi Chúa Giêsu không giận dữ sao cho được cơ chứ?. Ngài muốn vào Đền Thờ của Ngài mà Ngài không sao vào cho được trong khi bao nhiêu chướng ngại vật ngăn cản con đường Ngài vào Đền Thờ của Ngài trong Tâm Hồn của chúng ta.
Ngài không giận sao được khi cái bản thân này chính Cha Ngài đã ra công tác tạo nên chúng ta cho nên giống hình ảnh thương yêu rất dấu ái của Cha Ngài, mà nhìn xem cái công trình ấy! Con người mặc nhiên muốn quên lãng, thật vô tình, và vô ơn không dành cho Chúa được một ít thời giờ trong ngày để ca tụng. Để ca khen, tôn vinh, chúc tụng Thiên Chúa là Đấng vô song, là Thiên Chúa, là Chủ Tể của muôn loài trên khắp cùng vũ trụ.
Ngài không giận sao được khi hiểu lý do Ngài được Chúa Cha sai xuống trần để chết cho nhân loại tội lỗi này hay sao!?. Cho những con người mà mở miệng lại còn đòi Con Thiên Chúa cho xem Dấu Lạ để làm Tin hay sao? Hay cho những con người mà lòng dạ chúng không khác nào lòng lang dạ sói. Chúa không giận dữ sao được cơ chứ, hỡi nhân loại con người luôn sống vô ơn và bội phản.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã làm một việc rất là phải vì Ngài muốn Đền Thờ của Cha Ngài được nhân loại Tôn Thờ chứ không phải là một nơi để buôn bán và đổi chác. Ngài đã đuổi tất cả những con buôn này ra khỏi Đền Thờ Cha Ngài. Thưa những con buôn này là ai? Có phải những con buôn này là những gì dơ bẩn đang chất chứa trong tâm hồn của chúng ta hay không?. Có những khi chúng ta quá tội lỗi, quá u mê, quá chạy theo những gì mà ma quỷ chúng giăng trước mắt, chúng kiên nhẫn mà chiêu dụ chúng ta khi đã ăn quen thì linh hồn của chúng ta chúng sẽ lấy một cách dễ dàng mà thôi không?. Hỡi những ai còn đang ngủ mê, hãy tỉnh dậy mà canh thức, kẻo Chủ trở về mà không còn thời giờ để kịp hối cải và ăn năn đền tội. Nhờ bài đọc của tuần này, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh chúng ta, Ngài muốn chúng ta cùng dọn dẹp tâm hồn cho trong sạch để cùng với Ngài chuẩn bị con đường Hiến Tế và Hy Sinh. Con đường của Thập Giá. Con đường mà Ngài đã chọn để chết cho nhân loại tội lỗi bất xứng của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu! Con người nhân loại chúng con là chi? Sao Chúa lại yêu thương chúng con quá đỗi!? Ngài buồn phiền nhân loại chúng con, Ngài yêu thương chúng con cả khi chúng con tội lỗi ngập lụt. Luôn sống trong thù hận, gian manh, lừa đảo, bội phản, tham ô, mà Ngài chỉ có thể thốt lên được câu: "Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Trong Mùa Chay Thánh, xin cho chúng con cùng bắt chước Ngài Giêsu sống trong chay tịnh, để kiểm điểm lại chính mình và trở về hòa giải cùng với Thiên Chúa. Kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn. Yêu thương anh chị em như yêu chính mình. Tha thứ mọi người để được Chúa thứ tha. Để chúng con cũng xứng đáng được lê những bước chân theo Chúa, mang theo Thánh Giá của đời mình cho nên được giống Chúa hơn. Để có những chặng đường chúng con vấp ngã vì tội lỗi, xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con có thể tiếp tục vác Thánh Giá đời mình theo Chúa cho đến cùng và được chết với Chúa trên Đồi Can-vê hay cho đến khi được Chúa thương gọi về Nhà Chúa là Nơi chúng con khao khát chờ đợi và mong được Tìm Về Chúa ơi!. Amen.
Tuyết Mai
SỰ LẠM DỤNG THÂN XÁC
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 – 11.02.12 vừa qua, chúng tôi có dịp tham quan Singgapor và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singgapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singgapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200 USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09.02.12 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tối thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công – dung – ngôn – hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: “cái đẹp đang đè bẹp cái nết”. Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài – gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn …
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng … mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: “Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện Xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Lm. Ignatio Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay nầy có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”.
Xh 20: 1-17
Bản văn Xuất Hành trình bày Thập Giới. Việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên của Thập Giới.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, bởi vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
1Cr 1: 22-25
Ở giữa bài đọc I và bài Tin Mừng, bài đọc thứ hai được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô chiếm một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn sắp đến gần: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I Xh 20: 1-17
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói nó là cơ sở của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong bộ Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào trong bối cảnh của cuộc Thần Hiện, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài dị biệt. Điểm dị biệt dể thấy nhất chính là lý do khác nhau được nêu lên về việc tuân giữ ngày sa-bát trong hai bản văn. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới:
Tính chất cổ xưa của Thập Giới là chắc chắn. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
Thập Giới được ban trong khung cảnh của cuộc Thần Hiện trên núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá nầy như đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua nầy nhận được tước hiệu: “Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật”. Chúng ta cũng không thể không liên tưởng đến vua Hy-lạp là Minos. Vào cũng một thời kỳ này, vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện suốt chín năm; sau đó vua ra sức làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình. Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.
2. Nội dung của Thập Giới:
Thập Giới trình bày một tổng đề của những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định để diễn tả lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định để diễn tả lệnh truyền phải làm: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12).
Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong một cuốn sách của Ai-cập có nhan đề “Những người đã qua đời”, ở đó người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:
Tôi đã không ăn cắp…
Tôi đã không giết người…
Tôi đã không nói láo…
Tôi đã không ngoại tình…
Tôi đã không làm chứng gian…
Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…
Luân lý của người Ai-cập gần với luân lý Kinh Thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay của dân Hy-lạp. Thập Giới được phân chia thành những giới luật, chúng nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
- Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được phủ phục thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến cả “ngàn đời”. Cách nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chưng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối tương quan của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh truyền: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Cách thức phát biểu nầy xuất hiện muộn thời hơn trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5, thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên) và chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ bút ký như ngôn sứ A-mốt và nhất là ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên).
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh truyền nầy nhằm nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
- Bổn phận đối với tha nhân:
Với những bổn phận đối với tha nhân Thập Giới trở về luân lý phổ quát, bởi vì chúng có giá trị luôn mãi và khắp nơi. Nhưng ở đây điều cốt yếu là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng những ý định ẩn kín ở trong lòng được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong tâm trí con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng huấn lệnh “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Lệnh truyền nầy được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18).
3. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II 1Cr 1: 22-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô mà chúng ta đã có dịp tìm hiểu nhiều đoạn văn trong suốt những Chúa Nhật Thường Niên trước đó. Đoạn trích ngắn mà chúng ta đọc hôm nay được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích dẫn nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của nó rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
1. Bối cảnh của bức thư:
Xin được nhắc lại vắn tắt: những bất hòa đã xảy ra giữa các tín hữu Cô-rin-tô về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân nói đến người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
2. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a, Đấng ấy chứng thực tính chính thống sứ mạng của mình bằng những điềm thiêng dấu lạ, Đấng Mê-si-a đầy quyền năng đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng theo đó Đấng Mê-si-a đã có thể chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác, thánh nhân đã bị họ bách hại.
3. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Đối với người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô rao giảng cho họ “Một Con Người”. Đoạn trích của bức thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
4. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo. Thập giá cũng không là một sự chứng minh. Nhưng thập giá chính là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ẩn dấu ở nơi sự kiện đó, là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách biệt Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân chủ ý giương cao “hình ảnh duy nhất của Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG Ga 2: 13-25
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: Đức Giê-su phẩn nộ, “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài muốn nói rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài của nó; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo của nó: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi đã băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ bán súc vật được dùng vào các hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái” thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua của năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gio-an). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn giáo sĩ …Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu của Dân Mới của Ngài và sẽ được gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gio-an:
Tin Mừng Gioan đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh ký muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a). Đức Giê-su đã được Gioan tẩy giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là thân thể của Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Sau nầy, những kẻ tố cáo Ngài xuyên tạc lời của Ngài: “Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…” (Mt 26: 61). Điều mà thánh ký muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan dùng từ “Đền Thờ” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ “Đền Thánh” là nơi cực thánh của Đền Thờ.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (cốt yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành phách mạnh của phiên tòa nầy. Người đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh ký ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”; như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
Lm. Ignatio Hồ Thông
THANH TẨY ĐỀN THỜ NƠI THÂN XÁC CHÚNG TA
Lm. Ignatio Trần Ngà
Chúa Giê-su rất hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giê-su và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, hai môn đệ Gia-cô-bê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giê-su liền quở trách Gia-cô-bê và Gioan vì đã tỏ ra không bao dung cũng chẳng có chút nhân từ. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục và hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu đóng đinh vào thập giá với những đớn đau khủng khiếp, Chúa Giê-su chẳng những không oán hận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không bao giờ nổi giận.
Dù rất hiền lành, Chúa Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Gioan 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà ‘cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giê-su cũng dạy rằng mỗi người chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy”. (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng Lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn.” (Lc 17, 1-2)
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” ( Icor 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc, được xức dầu thánh hiến bằng Thánh Thần, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lm. Ignatio Trần Ngà
PHẢI BỊ THIỆT THÂN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti…
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá ( église - church ): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ… là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église – Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư ? Chuyện lớn đấy ! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào ( x. Mc 2,27 ). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào ? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành “ người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều ( x.Mc 9,35 ). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng “cha chú” đó đây, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. “Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” ( Quản Trọng ). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây ? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành ( x.Mt 19,16-19 ). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức “thờ ngẫu tượng”. Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền” ( dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị ) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ ( x.Lc 16,13 ). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…( 1 Cr 1,22 ). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy ( x.Ga 15,20 ). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
ĐỀN THỜ TÂM HỒN
Học Viện Đaminh
Kinh nghiệm về đền thờ của người Do Thái
Dân Do Thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Thiên Chúa. Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước. Từ đó, Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Người. Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, vua Đavít muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng, bước sang triều đại của vua con là Salômon, ý định của Đavít mới được thực hiện.
Dù đền thờ đã mấy lần xây rồi bị phá, nhưng đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, xã hội. Bởi lẽ đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do Thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Sau nữa, đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do Thái thường nói đến đền thờ.
Nhưng rồi qua năm tháng, ý nghĩa của đền thờ đã bị tục hóa, đền thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Đức Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho đền thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho đền thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Đức Giêsu muốn chúng ta nội tâm hóa đền thờ, đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta để trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của Thiên Chúa.
Việc thanh tẩy đền thờ đích thực
Việc thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu hôm nay còn liên hệ với một đền thờ khác. Đền thờ còn cao trọng hơn so với đền thờ bên ngoài. Đền thờ đó là tâm hồn mỗi chúng ta mà như thánh Phaolô đã nhắc nhở: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?" (1Cr 3,16). Và chính Đức Giêsu cũng đã khẳng định điều này: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế." (Ga 4,21-24).
Ngẫm lại bản thân mỗi người, nhiều lúc chúng ta nhận thấy mình đã vô tình làm dơ uế đền thờ Thiên Chúa nơi chính tâm hồn mình. Nhìn vào bản thân mỗi người, có khi ta đến nhà thờ chỉ vì bổn phận, sợ sự dòm ngó của người khác về đời sống đạo của ta, nên ta tham dự phụng vụ với tâm trạng miễn cưỡng. Đi lễ nhưng lại không dám đến gần cộng đoàn mà lại đứng xa xa, đứng ở một góc nào đó và đôi lúc cũng chẳng chú ý đến thánh lễ mà chỉ ngồi nói chuyện với nhau. Mỗi khi có thái độ như vậy là ta đã vô tình biến nhà thờ thành nơi buôn bán rồi.
Chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu đối với những người buôn bán trong đền thờ, ta ước sao mình có thái độ cương quyết trước những thoả hiệp, nhượng bộ chiều theo điều xấu của bản thân; cũng như không cậy vào sức riêng của bản thân nhưng biết nương tựa vào ân sủng của Thiên Chúa, để hằng ngày chúng ta thanh tẩy đền thờ tâm hồn, loại đi những gì là ô uế, đam mê, tội lỗi khỏi tâm hồn mình, để từ đây, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thật sạch và đẹp cho Chúa ngự vào.
Gợi ý chia sẻ:
Dịp Mùa Chay này, anh chị em có quyết tâm gì trong việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mình?
Học Viện Đaminh
VÌ NHIỆT TÂM VỚI VIỆC NHÀ CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Không được buôn bán ở đây
Trong cuộc đời công khai của Ðức Giêsu, câu chuyện Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Ðền Thờ là một trong những chuyện được biết đến nhiều nhất. Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này. Nhiều nhà điêu khắc và hoạ sĩ cũng trình bày biến cố này theo nhiều phong cách khác nhau.
Từ trước đến nay, và mãi về sau vẫn thế, Ðức Giêsu vốn được nhìn nhận là nhà giảng thuyết về tình yêu. Trong câu chuyện này, Người bước vào khuôn viên Ðền Thờ, tay cầm roi, mặt bừng bừng giận dữ. Người xua đuổi những kẻ bán bồ câu, bò và chiên ; Người đổ tung tiền của những người đổi bạc, và lật nhào bàn ghế của họ. "Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Cách đây không lâu, bên bờ hồ, cũng chính Người đã công bố các mối phúc thật, trong đó có mối phúc : Phúc thay những ai hiền hoà ...
Ðức Giêsu là một người bạo động hay bất bạo động?
Tại sao Ðức Giêsu lại nổi giận như thế ? Thánh Gioan trích lại một câu Thánh vịnh như là chìa khoá : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa ... Như thế, ở đây là một cảnh nói về sự ghen tương của Thiên Chúa. Kinh Thánh vẫn thường mô tả về một Thiên Chúa hay ghen, Người không chấp nhận sự chia sẻ. Cơn giận của Ðức Giêsu diễn tả mối ghen tương này : Người không cầm mình được khi nhìn thấy người ta xúc phạm, làm ô uế ngôi nhà nơi Thiên Chúa gặp gỡ dân Người.
Hãy thử tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện, vì trong đó bao hàm nhiều ý nghĩa trái ngược nhau.
Trước hết, Ðức Giêsu không xử với những người buôn bán như là những người buôn bán. Người không tố cáo họ làm ăn bất chính, nhưng Người tố cáo họ, vì họ không tôn trọng nơi được gọi là nhà của Thiên Chúa.
Cũng cần phải hiểu về ý nghĩa của Ðền Thờ lúc bấy giờ. Ðây không phải là một đền thờ trong số muôn ngàn đền thờ. Ðây là Ðền Thờ duy nhất, nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, một nơi mà mỗi năm, người Do-thái phải hành hương để dâng của lễ và nộp thuế.
Ðền thờ Giêrusalem thực sự là trung tâm mọi sinh hoạt của người Do-thái. Chỉ vì một lý do duy nhất là dân Do-thái phải tản mác khắp nơi nên các hội đường mới được xây dựng càng lúc càng nhiều để họ có nơi thờ tự.
Chính vì vậy người ta thấy được ý nghĩa sâu xa của trình thuật này, ý nghĩa vượt lên trên cả không gian lẫn thời gian. Khi nói về Ðền Thờ, Ðức Giêsu gọi là "nhà Cha tôi", và như thế Người là Con. Người còn cho biết, nếu người ta phá huỷ Ðền Thờ này đi, thì trong ba ngày Người sẽ xây dựng lại.
Nhưng đền thờ đó là đền thờ nào ? Chắc chắn Ðức Giêsu không có ý nói về đền thờ Giêrusalem : đền thờ này sẽ bị phá huỷ hoàn toàn ít năm sau đó, nhưng Người muốn nói về chính thân xác Người.
Sau này các môn đệ sẽ hiểu rằng đây là lời báo trước về Phục Sinh. Cuộc phục sinh của Ðức Kitô sẽ chứng tỏ rằng Người có quyền để cải tổ việc thờ phượng, đổng thời cũng cho thấy mối nhiệt tâm của Người dành cho nơi Thiên Chúa ngự.
Có lẽ chỉ ngay sau khi Ðức Giêsu ra khỏi Ðền Thờ, những người buôn bán sẽ tiếp tục hoạt động của mình. Tuy nhiên câu chuyện là một lời tiên tri về các hoạt động của Ðức Giêsu. Dưới ánh sáng phục sinh, Người sẽ bày tỏ dung mạo Tin Mừng của việc thờ phượng Người đã thiết lập : từ nay con người của Ðấng Phục Sinh sẽ là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ðó là sức mạnh tiềm ẩn trong những hành vi mà bên ngoài xem như là không có hiệu quả. Những hành vi này khơi dậy và làm vang lên lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng mời gọi con người hướng tới tự do, tới những điều mới mẻ, tới điều không thể được.
Con người là Ðền Thờ
Thay vì minh chứng những cơn giận thánh của Thiên Chúa và con người, thay vì những nhận định với mục đích trấn an về tâm lý nhân loại của Ðức Giêsu, có lẽ việc suy niệm về ý nghĩa của Ðền Thờ phải là trọng tâm của phần lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay.
Ðền Thờ - nhà tù
Nếu người ta coi Ðền Thờ là nơi duy nhất để tế tự, thì chuyện những người buôn bán có mặt ở đây là điều bình thường. Họ cung cấp các loại thú vật, đèn nến dành cho việc tế tự như luật định. Họ phục vụ cho những người đến Ðền Thờ để chu toàn bổn phận của mình.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra ở đây lại khác : Thiên Chúa ở đâu ? Ai đã đặt Người ở bên ngoài cuộc sống, trong vòng rào của những nơi thờ tự, ai đã giam hãm Người trong vai trò một người chỉ để đón nhận các nghi thức ? Thưa chính con người.
Ai đã vạch ranh giới giữa hai vùng đất, đất thánh (Ðền Thờ) và đất phàm ? Ai đã chia cắt Thiên Chúa ra khỏi dân Người, là nơi mà trước đây, Người vẫn dạo chơi - theo cách nói của vua Ða-vít - ? Cũng chính là con người.
Những người buôn bán trong Ðền Thờ là hình ảnh minh hoạ mối tương quan đã bị hiểu sai lạc giữa con người và Thiên Chúa, được coi như một thứ thuế giữa miền đất của con người và vương quốc của Thiên Chúa. Chính vì vậy Ðức Giêsu đã cầm roi để xua đuổi họ. Người muốn trả lại cho Ðền Thờ ý nghĩa nguyên thuỷ và cao cả.
Con người - Ðền Thờ
Cũng thật là sai lạc khi muốn giải trừ Thiên Chúa vào kinh nghiệm thiêng liêng của đời sống cá nhân. Ðặt Thiên Chúa quá ở bên ngoài hay quá ở bên trong cũng là một thứ áp dụng quyền bính trên Thiên Chúa. Ðây chính là cám dôỵ lớn nhất kể từ thời Sáng thế cho đến khi Ðức Giêsu chịu cám dôỵ trong sa mạc.
Việc Ðức Kitô nhập thể là một dấu chỉ tuyệt vời về Ðền Thờ của Thiên Chúa. Ðền thờ ấy là một con người với cả thể xác lẫn tinh thần. Một hiện hữu toàn diện trở thành nơi gặp gỡ với Thiên Chúa.
Ðức Giêsu Kitô, Thiên Chúa trở thành xác phàm, trao ban chính thân thể Người làm của ăn, và máu Người làm của uống, tức là Người trao tặng sự sống của Người để trở thành sự sống của nhân loại. Trong Ðức Giêsu, Thiên Chúa tìm lại được vị trí đích thực của Người.
Mỗi người là một đền thờ
Từ những suy nghĩ trên, chúng ta còn phải đi xa hơn. Ðức Kitô vẫn đang sống trong Thánh Thể. Và thân thể này, cũng chính là Hội Thánh. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô : "Anh em là thân thể Ðức Kitô" (1 Cr 12,27), "Anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa" (1 Cr 3,16).
Như vậy, trong thực tế, Ðền Thờ của Thiên Chúa là mỗi người chúng ta. Mỗi người cần phải xua đuổi, phải khử trừ tất cả những gì làm cho đền thờ này ra ô uế, không còn xứng đáng với danh hiệu nhà của Thiên Chúa. Những người buôn bán trong Ðền Thờ sẽ không còn là những người trao đổi hàng hoá trong khuôn viên Ðền Thờ để mưu sinh, nhưng là chính chúng ta, mỗi người chúng ta, từ nơi sâu nhất của chính mình, ngổn ngang vì những mối bận tâm đầy ích kỷ, gian dối và giả trá.
Như thế, đền thờ cần phải được thanh tẩy chính là tâm hồn chúng ta, ngõ hầu đền thờ ấy xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa chứ không phải là hang trộm cướp. Tâm hổn chúng ta phải được thanh tẩy khỏi mọi thứ chướng khí và mọi thứ lừa đảo, bởi vì đó phải là nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, phải là đền thờ không gì đáng chê trách, phải là nhà để cầu nguyện.
Theo lời thánh Phê-rô, Ðền thờ của Ðức Giêsu được xây dựng bởi những "viên đá sống động". "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, ở giữa họ" (Mt 18,20). Ðó chính là thân thể Ðức Kitô đang lớn lên giữa lòng nhân loại. Ðó chính là một đền thờ với những khuôn mặt, những bàn tay, những trái tim, mà chất xi-măng để gắn lại là sự gặp gỡ, chia sẻ, cùng đón nhận Tin Mừng và cùng tạ ơn ...
Hội Thánh được xây nên nhờ những con người, trước khi là một ngôi nhà bằng đá. Khi nghĩ đến câu nói của Ðức Giêsu về ngày sa-bát, người ta có thể thêm : "Các nhà thờ được xây dựng nên vì con người, chứ không phải con người vì các nhà thờ." Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn sống động khi cộng đoàn Kitô hữu sống động. Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn đang sống khi mỗi con người để cho chất men Tin Mừng hoạt động trong đời của mình.
Thiên Chúa ngự trong Ðền Thờ nhưng không bị giam hãm trong đó. Chính Người đã dẫn dân Ít-ra-en về Ðất Hứa, nhưng Người cũng yêu thích ngọn gió lay động các căn lều, Người cũng yêu thích những cuộc lên đường vào buổi sớm mai. Ðức Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường, từ thôn quê tới thành thị, và Người tuyên bố Người là Ðường. Từ nay, Ðền Thờ có mặt khắp nơi, rất tế vi và không thể nắm bắt được - giống như ánh sáng. Và điều bí nhiệm để Người xây dựng nên Ðền Thờ ấy, chính là sự Phục Sinh.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
BÀI ĐỌC THÊM
NGHỊCH LÝ CÂY THẬP TỰ
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
“Thương ôi, con Đức Chúa Trời ra đời làm người, chịu trăm nghìn sự thương khó vì tội thiên hạ”.
Lời ngắm bi thương thống thiết đưa ta về với một hy lễ đẫm máu trên đồi Canvê năm xưa. Trên cây Thập tự, Đức Giêsu hiến mình làm giá cứu chuộc nhân loại. Có biết bao cái chết mỗi ngày mà sao cái chết của người có tên là Giêsu cách đây hai ngàn năm lại được lưu danh hậu thế? Có bao dụng cụ hành hình mà sao cây gỗ năm xưa lại trở thành biểu tượng của những cảm xúc thiêng liêng? Thưa, vì Đấng chịu treo trên cây gỗ là Con Thiên Chúa làm người. Có người phê phán các Kitô hữu “tôn thờ một dụng cụ hành hình, một biểu tượng của tội ác”. Không! Các Kitô hữu không thờ một cây gỗ, mà là thờ Đấng chịu treo trên cây gỗ đó. Không có Chúa Giêsu, cây gỗ sẽ trở thành vô nghĩa, vô hồn. Một Đức Giêsu không trải qua Thập giá sẽ không còn là Đức Giêsu của đức tin. Chúa đã quở trách ông Phêrô là “Satan”, khi ông muốn can ngăn Người bước vào cuộc khổ nạn (x. Mt 16,21-23).
Từ 2.000 năm nay, cây Thập tự đã khơi nguồn gợi hứng cho biết bao tác phẩm văn chương nghệ thuật, làm cho chúng sống mãi với thời gian. Nơi cây Thập tự, chúng ta học được nhiều bài học để sống làm con người và làm con Chúa. Một dụng cụ hành hình đã trở nên biểu tượng của tình yêu. Xem ra cây Thập tự mang nhiều nghịch lý cuộc đời.
“Hận thù - yêu thương”: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 15,14). Những tiếng la hét giận dữ, những nắm đấm giơ lên, những khuôn mặt hừng hực căm thù, đó là bức tranh diễn tả khung cảnh “pháp đình” vào lúc Đức Giêsu bị kết án. Những kỳ mục Do Thái đã căm thù và muốn giết Chúa, như thanh toán một nhân vật nguy hiểm đối với họ. Hậu quả là cái chết của một người vô tội. Bản án được tuyên là tử hình thập giá. Cả khi Đức Giêsu đã bị treo trên Thập giá, họ vẫn còn nguyền rủa, thách thức: “Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền!” (Mt 27,42). Tuy vậy, nếu con người muốn kết án Chúa bằng khổ hình thập giá để thoả mãn sự ghen ghét của họ, thì Đức Giêsu lại muốn biến Thập giá thành biểu tượng của tình yêu. Cây Thập giá là nơi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài đối với thế gian một cách mãnh liệt nhất. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu đã lấy yêu thương đáp lại hận thù. Người đã thể hiện điều đó qua lời xin Cha tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Người tín hữu hôm nay, khi cầu nguyện trước Thập giá, được nghe lời mời gọi hãy yêu thương, tha thứ. Nếu biết sống sứ điệp của Thập giá, thế gian sẽ hết hận thù, tình yêu sẽ tràn đầy mặt đất. Thập giá là bí quyết của sức mạnh vượt lên chính con người ích kỷ của mình, đem lại sự bình an và tha thứ cho anh chị em.
“Sự chết - sự sống”: Các tác giả Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu đã làm cho nhiều người đã chết được sống lại. Qua những phép lạ này, Chúa chứng minh Người là Đấng đến để ban sự sống cho nhân loại. Như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để nảy mầm, trên cây Thập giá, nguồn sự sống đã chấp nhận chết đi để ban sức sống mới cho muôn người. Một số kỳ mục và người dân Do Thái đã hoan hỉ vì thấy người mà họ căm ghét đã bị giết chết. Họ trở về mừng lễ Vượt qua, kỷ niệm biến cố Chúa giải phóng tổ tiên họ năm xưa. Họ nhắc bảo cho nhau những điều kỳ diệu Chúa đã làm khi dẫn đưa cha ông họ ra khỏi Ai Cập. Ra khỏi Ai Cập là ra khỏi sự chết, là ra khỏi cảnh nô lệ. Cũng chính trong đêm kỷ niệm kỳ diệu ấy, Đức Giêsu đã ra khỏi mồ. Người ta đã giết Chúa, nhưng Người đã sống lại. Cái chết không phải là câu nói cuối cùng của Thiên Chúa. Ngôi mộ chẳng là chặng dừng vĩnh viễn của kiếp con người. Cây Thập giá vừa là “giường Vua Cả nằm khi sinh thì”, đồng thời cũng là thửa đất phì nhiêu để hạt giống nảy mầm sinh sôi. Cây Thập giá đã trở thành cây trường sinh, là phản diện của cây trái cấm ở thuở ban đầu của lịch sử. Ngôi mộ trống của ngày thứ nhất trong tuần là ngôn ngữ sống động minh chứng quyền năng Thiên Chúa. Từ ngôi mộ này, một cuộc sáng tạo mới đã được khởi đầu. Đó cũng là nơi con người tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn về sự chết và đau khổ đang giày vò biết bao thế hệ. Nhờ cây Thập giá, sự chết được biến đổi thành sự sống, đau khổ đã trở thành niềm vui. Mỗi khi ngang qua những nấm mộ có cây Thập giá, chúng ta nhìn thấy mầm sống tương lai đang hé mở, đem lại niềm hy vọng cho người đang an nghỉ. Triết lý “hạt giống mục nát để nảy mầm” cũng là ơn gọi của người tín hữu chúng ta. “Ai yêu quý mạng sống mình ở đời này, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Vâng, người tín hữu đang chết đi mỗi ngày qua sự sám hối hy sinh và dấn thân phục vụ, để họ được sự sống siêu nhiên, được hạnh phúc hôm nay và mãi mãi.
“Người kết án - Người bị kết án”: Philatô với cương vị là một người chủ toạ phiên xử cho bị cáo có tên là Giêsu, lại tỏ ra lúng túng trước những câu trả lời của Chúa. Vào lúc ông muốn chứng tỏ uy quyền của mình, thì ông được nghe Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chăng ban cho ngài” (Ga 19,11). Chính Philatô cũng phải thừa nhận Đức Giêsu vô tội (x. Ga 19,4), nhưng vì hèn nhát trước làn sóng phản đối dữ dội kèm theo những lời đe dọa của người Do Thái, ông đã chấp thuận lên án tử cho Chúa. Ngàn ngàn năm sau, con người hèn nhát đó vẫn không thoát trách nhiệm: “Thời quan Phongxiô Philatô, Người chịu khổ hình và mai táng…”. Đối diện với Philatô, Đức Giêsu nhắc ông hãy nhìn lại mình. Hãy nhận ra những quyền lực mình đang có chẳng phải do công lao cá nhân, nhưng là do Trời ban cho, vì vậy cần phải xử sao cho hợp với “lòng dân, ý Trời”. Trên cây Thập giá, Đức Giêsu cũng đã hành xử quyền thẩm phán của Người. Thật là nghịch lý khi thấy một con người đang bị treo trên cây gỗ lại mạnh mẽ tuyên bố với một tử tội khác: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Đó chẳng phải là một lời cầu chúc mà là một lời tuyên bố dứt khoát. Đức Giêsu trên Thập giá đã tỏ cho mọi người thấy vương quyền của Ngài. Vì thế, với ngọn bút của tác giả Tin Mừng Thánh Gioan, Thập giá vừa là khung cảnh thương đau, nhưng cũng là nhạc khúc huy hoàng. Chẳng phải vô cớ mà tác giả ghi lại chi tiết tấm bảng trên đầu Thập giá được ghi bằng 3 thứ tiếng: Dothái, Latinh và Hylạp. Điều này mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt: tiếng Dothái là ngôn ngữ của tôn giáo, của Thánh Kinh; tiếng Latinh là ngôn ngữ hành chính, xã hội thời Đế quốc Lamã; tiếng Hylạp là ngôn ngữ của một nền văn hoá đương thời phồn thịnh. Đức tin vào Đấng chịu đóng đinh đã, đang và sẽ được trình bày với mọi tôn giáo trong tinh thần đối thoại tương kính; được giới thiệu cho mọi nền văn hoá như chất men làm thăng hoa những giá trị nhân bản; được loan báo cho mọi giai tầng xã hội để cổ vũ nhân ái, xây dựng một nền văn minh tình thương. Đức Giêsu đã qua đau khổ đạt tới vinh quang. Những ai muốn làm môn đệ của Người không thể chối từ thập giá, nhưng được mời gọi cùng Người vác thập giá đời mình, trong tình mến Chúa và những dấn thân phục vụ anh em.
“Điên dại - khôn ngoan”: “Lời rao giảng về Thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa… vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1,18.25). Trải suốt bề dày của lịch sử, biết bao người đã “điên dại” chọn cây Thập giá làm lẽ sống cho đời mình. Vào thời cấm cách, người ta không thể hiểu tại sao có những tín hữu Việt Nam, từ người học thức đến người bình dân, từ người làm việc triều đình đến người nông dân nghèo khổ, bị “nhiễm bệnh Thập giá” đến nỗi thà chết chứ không bước qua cây gỗ. Họ bị kết án là những kẻ phản bội triều đình. Họ bị coi là những người điên. Ấy vậy mà họ vẫn vui vẻ và sẵn sàng đón nhận cái chết. Thánh Anrê Kim Thông (1790–1855) đã trả lời quan khi vị này ép ông đạp lên Thập giá: “Thánh giá mà tôi tôn thờ hôm qua thì hôm nay tôi không thể bước lên được”. Cũng vậy, ở tuổi đời 72, Thánh Phêrô Tuần (1766–1838) đáp lại: “Tôi thật đã già yếu lại ốm đau, nhưng tôi tin Thiên Chúa sẽ ban cho tôi đủ sức mạnh để chịu mọi hình khổ và ngay cả cái chết vì Ngài nữa”. Và thế là, vì từ chối bước lên Thập giá, “từng đoàn người anh dũng bước lên pháp trường” trước nỗi kinh hoàng và thán phục của những người đại diện cho quyền lực thế gian. Các Thánh Tử đạo đã chấp nhận tiếng người đời cho là điên dại để được khôn ngoan suốt đời, vì các ngài xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ơn gọi của người tín hữu là bước theo Đức Giêsu. Nhưng con đường Người đã đi là con đường Thập giá, vì thế mà chúng ta không thể chọn con đường khác. Muốn nhận nụ hôn của Chúa, thì phải chấp nhận sự đau đớn gây ra do những chiếc gai trên đầu Người. Đường Thập giá là đường đau khổ, nhưng cũng là con đường đem lại cho chúng ta niềm vui thiêng liêng.
“Lạy Chúa Giêsu, chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa, vì Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc chúng con”. Vâng, chúng ta hãy đến thờ lạy, hãy đến lắng nghe và đón nhận những bài học của Thập giá. Câp Thập giá là nguồn gợi hứng bất tận cho những suy tư đạo đức của chúng ta, nếu chúng ta đến với Thập giá với đức tin, vớ
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY - B
Ga. 2, 13-25
11-03-2012
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ - Lm. Px. Vũ Phan long, ofm ……….….…… |
02 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B – Lm Carôlô Hồ Bặc Xái ………………..…...…. |
15 |
CUỐN PHÚC ÂM HAY CUỐN PHIM – Lm. Mark Link, SJ ………………………. |
25 |
TẨY RỮA – Lm. Vũ Đình Tường ………………………………………..………… |
29 |
THANH TẨY ĐỀN THỜ – Lm. Giuse Hoàng Kim Toan ……………………..….. |
31 |
DẤU CHỈ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng ..………………………..…………………. |
34 |
NHÀ TA LÀ NHÀCẦU NGUYỆN – Lm. Trần Bình Trọng …………………..….. |
39 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Đinh Lập Liễm ............................ |
45 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ………………….. |
55 |
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR ……..… |
60 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B - Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR ………..……… |
63 |
ĐỪNG LÀM NHÀ CHA TA THÀNH NƠI BUÔN BÁN – Tuyết Mai …………….. |
65 |
SỰ LẠM DỤNG THÂN XÁC - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ………………………… |
70 |
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B – Lm. Ignatio Hồ Thông ………..…………….... |
73 |
THANH TẨY ĐỀN THỜ NƠI THÂN XÁC CHÚNG TA – Lm. Ignatio Trần Ngà . |
84 |
PHẢI BỊ THIỆT THÂN – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa …………………………. |
87 |
ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Học Viện Đaminh …………………………………………. |
91 |
VÌ NHIỆT TÂM VỚI VIỆC NHÀ CHÚA – Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP ….. |
93 |
BÀI ĐỌC THÊM …………………………………………………………..…………… |
99 |
NGHỊCH LÝ CÂY THẬP TỰ – Gm. Giuse Vũ Văn Thiên ………………..……… |
99 |
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình.
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL : Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải CôngGiáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
- Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
- Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
- Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
- ... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
] Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Chủ Ðề: Vì thương, Thiên Chúa dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan. (Ga 2,17)
Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Thế nào là khôn ngoan? Phải chăng là khéo léo để được hơn người, để làm ăn thành đạt, để được người đời khen ngợi? Thế nhưng "lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?" Sự khôn ngoan của thế gian chỉ là ngu dại trước mắt Thiên Chúa. Hôm nay Lời Chúa sẽ dạy chúng ta một cách sống khôn ngoan thực sự sẽ mang hạnh phúc đến cho ta chẳng những ở đời này mà còn cả đời sau. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Người khôn ngoan là người sống theo luật Chúa. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vi phạm luật Ngài.
- Thập giá Ðức Giêsu là sự điên rồ đối với thế gian, nhưng là sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều khi chúng ta trốn tránh thập giá, vất bỏ những thập giá Chúa gởi đến cho chúng ta.
- Thân xác và tâm hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã để đền thờ ấy ra dơ bẩn. Xin Chúa thương thanh tẩy.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc. Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều luật.
Thực ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới: yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới: mến Chúa).
2. Ðáp ca: Tv 18
Thánh vịnh này ca ngợi luật pháp của Chúa: a/ đó là luật toàn thiện ; b/ rất hữu ích cho cuộc sống ; c/ vì thế nó đáng quý chuộng hơn mọi thứ quý giá nhất ở đời.
3. Bài đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì thế Thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
4. Tin Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét chủ trương "vị luật".
Chính Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
* 2. Sự khôn ngoan của Thập giá
Một vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không có tình yêu, ta không thể sống
Không có đau khổ, ta không thể yêu
Phải học yêu để sống tốt hơn
Và phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình yêu là nhung nhớ về cõi trời ; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một cái gì đó của đất.
Vui sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư (déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để lại một cái gì đó.
Dĩ nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để chiến đấu.
* 3. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
* 4. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật chỉ dạy.
Kitô hữu ngày nay cũng cần lưu ý:
- Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì yêu mến Chúa.
- Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà chúng ta giữ luật bởi vì Chúa đã yêu ta.
* 5. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Còn ông Phaolô thì nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ". Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng về thập giá.
Có nhiều điều trong cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
* 6. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi". Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
«««
Tin mừng hôm nay thuật lại Ðức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Ðền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào luỹ cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.
Hôm nay Ðức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Ðền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ. Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Ðền Thờ. Thái độ quyết liệt của Ðức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.
Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đầu đây:
- Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.
- Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.
- Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.
- Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Ðồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây" (Ga.216). Lời bất bình đó của Ðức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.
Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ thập giá của Ðức Giêsu, Ðấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Ðấng Phục sinh. Người chính là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.
«««
Lạy Cha, Mùa chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Ðền Thờ mới là Ðức Giêsu, Con Cha. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 7. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em, nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hòa. Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã. Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu là Ðền thờ, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng là Ðền thờ sống động của Thiên Chúa. Ðền thờ này cũng cần được thanh tẩy cho xứng đáng hơn. Trong mùa Chay này, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta:
1. Hội thánh là Ðền thờ của Thiên Chúa nơi mọi người hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau /. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi thành phần trong Hội thánh / biết loại bỏ những thái độ giả hình, kiêu căng, chia rẽ, kỳ thị / làm cản trở cho sự hiệp thông đó.
2. Thế giới và các quốc gia là đại gia đình của nhân loại, nhưng luôn trở thành chiến trường về kinh tế và chính trị / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền / biết loại trừ tất cả mọi hình thức xâm lăng và bóc lột nhau / để các nước tôn trọng và giúp đỡ nhau phát triển.
3. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa / nhưng nhiều người đã khiến nó trở thành hình ảnh dễ sợ của ma quỉ /Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ ý thức sự ghê tởm đó / để bắt tay vào việc sám hối và thanh tẩy.
4. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / không ngừng thanh tẩy mình khỏi mọi tội lỗi nhất là các tội nặng.
Chủ tế : Lạy Ðức Giêsu, vì nhiệt tâm phục vụ Chúa Cha mà Chúa đã thanh tẩy đền thờ, xin ban cho chúng con thêm nhiệt tâm yêu mến Chúa, để luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng đón nhận dồi dào hồng ân cứu độ của Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời
Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
CUỐN PHÚC ÂM HAY CUỐN PHIM
Chủ đề: "Các sách Tin Mừng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Chúa Giêsu, mà còn giải thích ý nghĩa của những ngôn từ và hành động ấy"
Lm. Mark Link, SJ
Giả như đội quay phim của đài truyền hình có thể vào trong một chiếc máy khuất phục thời gian để bay ngược trở lại hơn 2000 năm về trước, đến thời của Đức Giêsu đang sống. Giả như họ có thể quay phim cuộc đời của Đức Giêsu từ lúc sinh ra tới lúc Ngài sống lại. Và giả như họ có thể đem cuốn phim ấy trở lại trong cái máy khắc phục thời gian.
Hãy suy nghĩ về chuyện đó. Cuốn phim đó sẽ giúp chúng ta bước vào thế giới của Đức Giêsu đang sống một cách chính xác. Nó cho phép chúng ta nhìn thấy những người mà Đức Giêsu thấy, và tuyệt nhất là nó cho chúng ta thấy được chính Đức Giêsu. Nói cách khác, thay vì đọc bài Tin Mừng hôm nay, thì chúng ta xem cuốn phim thời sự về Ngài. Và hiện tại chúng ta có thể thấy Đức Giêsu đang đuổi bọn buôn bán ra khỏi đền thờ. Chúng ta có thể thấy những biểu lộ trên gương mặt Ngài. Chúng ta có thể nghe được chính những lời Ngài nói ra.
Bây giờ bạn hãy cho phép tôi hỏi bạn một câu. Bạn có muốn đổi bốn cuốn Tin Mừng như chúng ta có hiện nay lấy cuốn phim như thế không? Giả sử rằng bạn không có thể có cả hai thứ. Bạn phải chọn một trong hai, cái này hoặc cái kia, bạn có muốn đổi các sách Tin Mừng lấy một cuốn phim như thế không?
«««
Nếu có ai đòi hỏi một chuyên gia nghiên cứu các sách Tin Mừng câu hỏi ấy, thì sẽ được ông trả lời: "Tôi muốn giữ lại bốn cuốn Tin Mừng". Ông giải thích rất hay. Ông bảo có rất nhiều người đồng thời với Đức Giêsu đã nghe và thấy những điều Chúa Giêsu nói và làm, nhưng họ không hiểu những lời ấy. Nếu chúng ta cũng chỉ có một cuốn phim về đời sống của Đức Giêsu, có thể cuối cùng chúng ta cũng sẽ hiểu lầm những điều Ngài nói và làm ấy. Chúng ta hãy lấy bài Tin Mừng hôm nay làm ví dụ.
Sau khi Chúa Giêsu đuổi các người buôn bán ra khỏi đền thờ,. Các nhà lãnh đạo Do thái tới hỏi Ngài: "Ông làm gì để chứng tỏ cho chúng tôi thấy rằng ông có quyền làm như vậy không?". Chúa Giêsu trả lời; "Hãy phá đền thờ này đi, rồi trong ba ngày Ta sẽ xây lại". Họ hỏi Ngài: "Ông sẽ xây lại đền thờ này trong vòng 3 ngày sao? Ngày xưa tổ tiên ta phải xây mất 46 năm đấy! "
Sau khi mô tả cuộc đối thoại ấy, Thánh Gioan viết: "Nhưng đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thể xác Ngài. Vì thế, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lại rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Đức Giêsu đã nói". Nói khác, ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài muốn nói vào lúc đó. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang thì những điều ấy mới sáng tỏ.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ khác, chẳng hạn như những gì xảy ra vào ngày lễ lá, khi Đức Giêsu cưỡi lừa đi vào thành Giêrusalem. Sau khi mô tả quang cảnh ấy, Thánh Gioan viết: "Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài" (Ga 12: 16)
Cái gì sau đó đã xẩy ra cho các môn đệ khiến họ có thể hiểu được những điều ấy? Chính là những điều mà Đức Giêsu nói thì đã xẩy ra. Trước khi chết, Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài: "Đấng phù Trợ, tức Thánh linh", mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy cho các con mọi điều, và sẽ làm các con nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14: 26). Nói cách khác, những gì khiến cho bốn Phúc Âm có giá trị hơn cuốn phim, chính là những sách Tin Mừng ấy được viết trong ánh sáng của Chúa Thánh Linh khi Ngài đến vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Phúc Âm là kết quả của việc làm do Chúa Thánh Linh, nên không phải chỉ ghi lại lời nói và công việc của Đức Giêsu, mà còn ghi cả ý nghĩa sâu thẳm ở đàng sau những lời nói và hành động ấy. Tôi xin minh hoạ điểm này.
Chúng ta đã từng coi mục quảng cáo thương mại trên TV dành cho máy ảnh Polaroid có một cô gái chụp một tấm ảnh vào bữa tiệc mừng sinh nhật. Sau khi cô ta chụp xong, có một mảnh giấy trắng cuộn ra khỏi phía trước ống kính máy Polaroid. Không có gì trên tấm giấy đó cả. Nó vẫn trắng. Nhưng rồi đột nhiên trước mắt chúng ta, hình ảnh và mầu sắc bắt đầu xuất hiện trên tấm giấy trắng ấy. Mới đầu chúng còn mờ nhạt, nhưng lập tức chúng trở thành rõ sáng và sắc nét.
Những biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu cũng giống như vậy. Mới đầu chúng dường như giống một tờ giấy trắng, không có gì là đặc biệt cả. Nhưng sau biến cố lễ Ngũ tuần. Thánh linh soi sáng tâm trí các môn đệ Đức Giêsu về những biến cố trong cuộc đời của Ngài. Đột nhiên những ý nghĩa sâu xa của những biến cố này bắt đâu xuất hiện rồi rõ nét giống như hình ảnh trên tờ giấy Polaroid vậy. Sự khác biệt giữa sự hiểu biết của các tông đồ về những giáo huấn của Đức Giêsu trước và sau lễ Ngũ Tuần cũng rõ rệt giống như sự khác biệt giữa giấy Polaroid trước và sau khi nó được trưng ra ánh sáng. Vì thế bốn sách Tin Mừng được viết ra có giá trị hơn một cuốn phim như đã nói rất nhiều. Chúng không phải chỉ ghi lại ngôn từ và hành động của Đức Giêsu, mà còn giải thích cho chúng ta biết ý nghĩa của chúng. Bốn cuốn Tin Mừng là món quà của Thiên Chúa ban tặng chúng ta. Thánh Giêrônimô gọi những sách Tin Mừng là những "bức thư tình" của Thiên Chúa Cha gửi cho con cái Ngài ở dưới đất.
Mùa chay là một thời gian rất thuận lợi để chúng ta tái khám phá ra quyền năng và vẻ đẹp của bốn Phúc Âm đó. Đó là thời gian thuận lợi để chúng ta nghe Tin Mừng trong thánh lễ một cách chăm chú hơn và với nhiều yêu thương hơn. Quan trọng hơn, mùa chay là thời gian thuận lợi để tập trung cái nhìn của chúng ta vào Đức Giêsu, nhân vật chính của bốn Phúc Âm. Đó là thời gian để chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Nếu chúng ta làm như thế, Ngài sẽ tỏ mình ra cho chúng ta vào Chúa Nhật Phục Sinh một cách hoàn toàn mới mẻ, giống như Ngài đã tỏ mình ra cho các môn đệ Ngài vậy.
Để kết thúc chúng ta hãy cầu nguyện. Hãy cám ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một món quà là Bốn cuốn Tin Mừng và hãy xin Ngài giúp chúng ta tin tưởng sâu xa hơn vào những cuốn sách đó. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con cám ơn Cha đã ban cho chúng con món quà là bốn cuốn Phúc Âm. Xin hãy giúp chúng con yêu mến và quí trọng những cuốn sách đó. Xin hãy giúp chúng con biết cách tự đặt mình vào địa vị các tông đồ để chúng con có thể nhìn và nghe những gì các ngài đã nhìn và đã nghe. Nhất là xin giúp chúng con sống theo bốn cuốn Tin Mừng đó. Xin hãy chỉ cho chúng con biết cách áp dụng Tin Mừng vào cuộc sống, để khi cuộc sống này hết hạn, chúng con sẽ được tham dự vào sự sống của Cha đến muôn muôn đời.
Lm. Mark Link, SJ
TẨY RỮA
Lm. Vũ Đình Tường
Trong hình ảnh thế giới loài vật có những điều nhờ ống kính và phát minh khoa học ta mới được nhìn thấy. Đó chính là hình ảnh một đàn cá con không sợ mà lại bu quanh một con cá lớn. Con cá lớn rất thân thiện, hiền lành, tỏ ra hoà nhã và có nhiều cảm tình với lũ cá bé. Chúng không đồng loại cá, khác loại nhưng lại thân thiện đến thế. Người ta hay ví von xỉa răng cọp nhưng ít ai nhìn thấy; còn xỉa răng cá thì quá rõ ràng. Cá bé bơi vào miệng cá lớn ăn những thịt cá dính chân răng con cá lớn. Con cá lớn mở miệng, phồng mang, xoè vây cho lũ cá con nhào vào những chỗ hiểm hóc, đầy nguy hiểm đó. Vì sao? Theo các nhà nghiên cứu thì con cá lớn cần đám cá con tẩy rửa những nơi hiểm yếu mà nó không tự tẩy rửa được. Người ta thấy hình ảnh con cá trườn mình trên cát vì chúng dùng cát lau rong rêu dơ dính trên vảy cá. Một hình thức tẩy rửa thông thường của loài cá. Bạn nào nuôi hồ cá trong nhà thấy cá con hay hớp cát rồi phun ra là hình thức rửa răng cá cho sạch. Những chỗ khó khăn như mang cá, miệng và vi là những nơi cá tự nó không thể thanh tẩy nên nhờ lũ cá con đến làm công việc thanh tẩy dùm. Cả hai đều có lợi. Cá lớn được tẩy sạch vết nhơ lại được một màn đấm bóp không mất tiền. Lũ cá nhỏ cũng có lợi vì được một bữa ăn ngon lại không tốn phí chi cả. Trên đồng cỏ lũ chim đậu lưng trâu cũng làm cùng công việc thanh tẩy đó. Chúng bắt rận cho trâu bò.
Đời sống động vật là như thế. Con người cũng cần thanh tẩy qua hình thức tắm rửa cho sạch sẽ bản thân. Thử quên tắm vài ngày bạn sẽ biết ngay cái mùi vị của chính mình. Có lẽ không cần phải lâu như thế chỉ cần đóng kín cửa phòng sau một đêm ngủ dài, sáng ra bạn nhận thấy cái mùi khác lạ. Trên chuyến bay dài hơn mười giờ đồng hồ, không khí trong máy bay lúc mới tươi mát thế nào, nửa đường bay bạn cảm thấy cái không khí đó vẫn mát lạnh nhưng vẻ trong lành bắt đầu nhiễm mùi vị và cuối chặng bay thì cái mùi đó tăng rõ.
Thông thường chúng ta cho đền thờ là nơi thánh nên gọi là đền thánh. Thực ra trên trần gian không nơi nào dơ hơn đền thờ. Đền thờ là nơi cực dơ, quy tụ mọi thứ bẩn thỉu. Một Chúa Nhật nào đó bạn ngồi quan sát xem. Còn có một thứ tội nào trên gian trần mà không xuất hiện trong đền thờ. Thùng rác chứa các chất dơ trần thế từ thề gian đến nói dối, từ cướp của đến giết người, từ gian dâm đến bán dâm đều có mặt nơi toà giải tội. Xét về phương diện đó thì đền thờ chính là nơi bẩn thỉu nhất, phòng giải tội chất chứa mọi thứ dơ bẩn trên đời. Đền thờ được gọi là đền thánh vì con người tội lỗi đến đó đổ bỏ mọi thứ dơ bẩn để trở nên tốt lành, trở nên thánh thiện hơn nên đền thờ là đền thánh vì giúp người ta nên thánh. Đền thờ là nơi tất cả các tội phạm, các bí ẩn cuộc đời được phơi bày. Mọi dấu kín được thổ lộ để tâm tư con người được thoải mái, để tâm hồn được bình an, để bản thân thấy nhẹ nhàng. Đền thờ chính là thùng rác công cộng cho mọi người tự do đến đổ rác, không từ loại rác nào, từ rác thông thường đến rác nguy hiểm mang chất phóng xạ đều được tự do đổ.
Thế sao Đức Kitô lại dùng roi, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ. Ngài lật tung bàn của người đổi tiền, thả chim cho bay đi tự do. Câu trả lời cho thắc mắc này nằm gọn trong hai chữ ‘ buôn bán hay chợ búa’. Buôn bán hay nơi chợ búa là nơi trao đổi. Đền thờ là thùng rác chung của xã hội. Ai muốn đổ rác đều có quyền và được tự do làm công việc đổ rác. Những người bị Đức Kitô xua đuổi vì họ không đến đền thờ để đổ rác mà đến đền thờ để buôn bán rác. Kẻ đến đổ rác thì được mời gọi. Kẻ đến sống nhờ buôn bán rác thì bị xua đuổi. Đức Kitô thanh tẩy đền thờ vì người ta làm cho đền thờ thành nơi buôn bán. Trung tâm của buôn bán dối trá, điêu ngoa, thề gian, làm chứng dối.
Đến đền thờ đổ rác chính là tìm sự sống chân thật. Có được sự sống thật nhờ biết vất bỏ rác rưới trói buộc con người. Nhờ vất bỏ nên cảm thấy tự do, thảnh thơi, thoải mái. Đến đền thờ buôn bán rác kiếm sống là tìm kiếm sự sống giả tạo, sư sống tạm bợ nên bị ngăn cản, cấm đoán.
Chúng ta xin ơn biết cách đổ rác và tránh xa việc buôn rơm, bán rác.
Lm. Vũ Đình Tường
THANH TẨY ĐỀN THỜ
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Liên quan đến thanh tẩy gồm có nước, lửa và máu. Nhơ uế làm ô nhiễm môi trường, tẩy uế nhằm đưa lại trạng thái thanh khiết, dứt bỏ tội lỗi do những quyến luyến trần tục, khơi lại nguồn cội của sự sống. Đền thờ trong khi đó là phản chiếu của đời sống thiêng liêng lại bị trần tục hoá bằng cảnh mua bán, đổi chác... Chúa Giêsu đến thanh tẩy Đền Thờ, hành vi và ý nghĩa việc Chúa làm.
Đền thờ vật chất
Chúa Giêsu đi vào Đền thờ với một tư cách chủ nhân mới của Đền thờ. Đền thờ do các Thượng tế dâng lễ vật sẽ không còn nữa: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi. Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10,11-12). Chúa Giêsu là Thượng Tế mới, Người cai quản Đền thờ đích thực, mọi hy lễ chiên, bò đều không còn cần thiết nữa, chỉ cần thiết một hiến lễ mới là “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền”. Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,8-9). Như vậy, Việc thanh tẩy Đền thờ mang một ý nghĩa trọng đại, không chỉ là việc Chúa xô đổ bàn đổi chác, người buôn bán ra khỏi Đền thờ, mà trong hy lễ mới, một hy lễ bằng máu, chính Người thiết lập, mỗi người hãy dâng hiến chính thân mình làm của lễ, tháp nhập cùng Chúa Giêsu trong hiến lễ của Người dâng lên Chúa Cha.
Tẩy uế Đền thờ, theo một nghĩa khác, Chúa Giêsu mời gọi: “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). “Đừng biến nhà Thiên Chúa thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Tục hoá đi vào thánh thiêng qua lối mua bán, rơi vào lĩnh vực tài chính. Ân sủng trở nên món hàng mua bán, Đền thờ thành nơi rửa tiền để lương tâm được nhẹ bớt. Các thượng tế trở thành kẻ rao bán, mị dân, thu về lợi nhuận. Điều chính yếu là sám hối, từ bỏ tội lỗi thì làm cho chiếu lệ. Tâm hồn càng ngày càng vẩn đục bởi khối lượng vật chất, lối sống hưởng thụ, ăn nói kiêu căng: “Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa” (Ed 34,10).
Tẩy uế Đền thờ, còn là thanh tẩy các mối tương quan giữa con người với nhau. Không phải là tương quan giữa trao đổi, đổi chác vật chất, mua bán, tranh giành mà bằng tương quan “nhân từ”, “hãy có lòng nhân từ” (Lc 6,36).
Đền thờ tâm hồn
“Thân xác là Đền thờ Thiên Chúa” (1 Cr 6,19), bởi thế tâm hồn không là nơi chứa đựng tội lỗi, thân xác không là nơi hưởng thụ. Thanh tẩy Đền thờ thân xác là con đường từ bỏ tội lỗi, dọn dẹp tâm hồn, cái xấu ở bên trong con người mà ra: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,20).
Lửa trong tâm hồn con người đã thiêu cháy bằng ngọn lửa dục vọng của thân xác, ngọn lửa thần linh từ ấy cũng tắt dần đi. Ai có thể thắp lại ngọn lửa khát khao điều công chính và ngọn lửa yêu mến Chúa. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,49). Như vậy, sự chết trên Thập giá của Chúa Giêsu cũng là lửa để thanh luyện, thắp lại cho tâm hồn con người đã nguội lạnh.
Ai có thể thanh tẩy tâm hồn con người chúng ta, nếu không phải là Thiên Chúa. Nếu vậy, việc Chúa đến xua đuổi quân buôn bán trong Đền thờ thân xác con người, là một ân ban đặc biệt vì Người còn để tâm đến.
“Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ. Tôi chắc kho tàng vô giá ấy ở trong anh và anh là người bạn thân tôi nhất, song tôi nào dám quét khỏi phòng mình lớp ngân tuyến phủ che. Vải liệm bao thân tôi là khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng. Tôi nợ nần nhiều lắm, tôi thất bại lớn lao, tôi xấu hổ âm thầm và ê chề sạn mặt, tuy nhiên khi tới hỏi xin lạc phúc, tôi lại run rẩy sợ lo, những e lời nguyện cầu được chấp nhận” (R. Tagore, Lời dâng, bài 28).
Con người tự mình không thể chiến thắng tội lỗi, bởi thế, Chúa Giêsu nói đến sự phá huỷ đền thờ thân xác, Người sẽ xây dựng lại Đền thờ thân xác mới trong 3 ngày. Người muốn nói đến chính Người chiến thắng sự chết là hậu quả nghiêm trọng của tội lỗi. Mang lấy thân xác mới của Chúa Giêsu để chiến thắng tội lỗi nơi mình. Chúng ta chiến thắng được tội lỗi là nhờ Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Thanh tẩy bằng nước, bằng lửa và bằng máu. Chúa đã thực hiện tất cả trên Thập giá vì chỉ muốn yêu thương con người và được yêu thương con người. Xin Chúa hãy đến thanh tẩy chúng con.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
DẤU CHỈ
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã truyền dạy các giới răn cho dân Do-thái qua ông Môisen. Biến cố Xuất Hành ra khỏi nước Ai-cập là một biến cố vĩ đại. Từ cuộc xuất hành Vượt Qua biển đỏ, Thiên Chúa đã chọn người Do-thái làm dân riêng. Từng bước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân. Thiên Chúa đòi hỏi dân riêng sẽ chỉ tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, Chúa hùng mạnh và Chúa ganh tị. Chúa sẽ tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến và tuân giữ các giới răn. Thiên Chúa đã trao ban Mười Giới Răn cho ông Môisen để hướng dẫn dân riêng đi trong đường lối của Chúa. Thập giới này là những luật lệ căn bản của con người mọi thời. Những điều răn này cũng được khắc ghi trong lương tâm của mỗi người. Bản kinh Thập Giới gồm tóm những điều cơ bản giúp con người tìm về nguồn chính thật. Mười Giới Răn được phân ra: Tôn thờ Thiên Chúa, tôn kính cha mẹ và hoàn thiện bản thân.
Dân Chúa đã chọn phải lưu lạc suốt bốn mươi năm trong hoang địa. Chúa dùng thời gian này để thanh tẩy, luyện lọc và dậy dỗ họ mọi điều. Tất cả các giới răn, những huấn lệnh và những luật lệ về đời sống tâm linh được hình thành trong thời gian này. Cuộc sống đời thường của Dân riêng hoàn toàn phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Trong cuộc hành trình, Chúa ban Manna và chim cút làm của ăn. Chúa ban nước uống qua các nguồn suối tươi mát. Sau bốn mươi năm lang thang trong sa mạc, đại đa số những người xuất hành từ Ai-cập đã trở về lòng đất. Một dòng dõi mới xuất hiện cưu mang những lời hứa và lệnh truyền của Chúa. Chúa bảo vệ, chăm sóc và cùng chiến đấu với họ để tiến vào miền Đất Hứa, nơi chảy sữa và mật. Thiên Chúa không ngừng nhắc nhở họ về các biến cố đã xảy ra trên đường lữ hành. Chúa đã chọn họ làm dân riêng để chuẩn bị đón chờ Đấng Cứu Thế giáng trần. Thiên Chúa luôn trung thành với các giao ước và thực hành những lời Chúa đã hứa qua các thời đại.
Qua lịch sử cứu độ, dân Chúa chọn đã nhiều lần thay lòng đổi dạ. Rất nhiều lần họ bỏ Chúa, đi thờ các bụt thần ngoại bang. Họ sống theo thói tục của người ngoại giáo. Chúa đã phạt họ phải lưu đầy xa xứ, nhưng rồi Chúa lại thương tha thứ cho trở về quê hương xứ sở. Các sự cố được lập đi lập lại qua sự yếu đuối của con người. Chương trình cứu độ cứ tiệm tiến từ dòng dõi này qua dòng dõi khác kéo dài cả ngàn năm. Khi Dân đi tìm kiếm sự khôn ngoan của người đời, họ đã bị thất vọng với sự trống rỗng. Các bụt thần gỗ đá và các tượng thần do bàn tay con người tạo nên, chỉ là để thỏa mãn những nhu cầu chóng qua và đòi hỏi bản năng thấp hèn của con người. Không có thần nào khác có thể làm cho con người thỏa mãn mọi khao khát thầm kín sâu thẳm trong tâm hồn. Chỉ những ai biết tìm về chính nguồn sự khôn ngoan đích thật, họ mới được an nghỉ và toại nguyện trí lòng.
Qua mọi thời, với lý trí, ý chí và tự do, con người đi tìm sự khôn ngoan để định hướng đời sống. Đã có biết bao nhiêu suy tư tìm kiếm tầm đạo, các triết thuyết, các trường phái góp phần đào sâu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người. Sự khôn ngoan của con người không thể giải đáp thỏa mãn được tất cả các ẩn số, thắc mắc và khát vọng sâu thẳm của con người. Trong thơ gởi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Các người Do-thái đòi hỏi dấu lạ, những người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh trên thập giá. Sự khôn ngoan của thập giá vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người. Đây là một mầu nhiệm, mầu nhiệm của ơn cứu độ, mầu nhiệm của tình yêu và là sự khôn ngoan tuyệt đối. Con người sẽ không có khả năng hiểu thấu về mầu nhiệm hy sinh thập giá của Chúa Giêsu Kitô.
Bài phúc âm, thánh Gioan kể câu truyện Chúa Giêsu lên Giêrusalem và vào trong đền thờ. Chúa Giêsu thấy có những người bán bò, chiên, bồ câu và cả người đổi tiền. Chúa đã bện giây đánh đuổi bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người Do-thái hỏi Người: Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu chỉ gì là ông có quyền làm như vậy? Chúa Giêsu trả lời: Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại. Không ai hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì và ám chỉ điều chi. Họ chỉ thách thức và đặt câu hỏi. Không ai dám ra tay ngăn cản, bắt bớ hay luận phạt về hành động của Chúa Giêsu. Chúa đã hành động nhiệt thành với cả tâm tình sốt mến lo cho nhà Chúa.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu là dấu chỉ tuyệt vời. Ngài đã mạc khải về sự khôn ngoan thật của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: Điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người. Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu lạ qua bàn tay uy quyền. Chúa Giêsu khai mở một con đường mới, con đường của tình yêu. Chúa đã lấy chính sự sống mình để lập giao ước mới. Giao ước mới được ký kết bằng chính Mình và Máu Thánh Người. Chúa Giêsu không xóa bỏ giao ước và các giới răn của đạo cũ nhưng làm cho mọi sự nên hoàn thiện.
Thuở xưa, Thiên Chúa luôn nhắc nhở dân riêng rằng: Ta là Thiên Chúa các ngươi, Ta đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi làm nô lệ vào miền Đất Hứa. Các ngươi không được tôn thờ chúa nào khác, không được lạm danh Chúa một cách vô cớ và giữ ngày Sabát. Thời Tân Ước, Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta ra khỏi miền thâm u tối tăm của tội lỗi, sự dữ và sự chết và đi vào trong miền ánh sáng, sự thật, tự do và chân lý. Chúa đến cư ngụ giữa chúng ta và trở nên bạn hữu thân tình. Chúng ta gọi Chúa là Cha, là Thầy và là Chúa. Chúng ta dâng hiến ngày Chúa Nhật để tưởng nhớ việc Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu độ chúng ta.
Thời Cựu Ước, qua các giới răn, Thiên Chúa dậy rằng phải thảo kính cha mẹ, không được giết người, không phạm tội ngoại tình, không trộm cướp, không gian dối và không muốn của người khác. Đạo lý Tân Ước dậy chúng ta cách tích cực hơn: Hãy thảo kính, yêu thương và chăm sóc ủi an cha mẹ. Hãy yêu thương đồng loại như chính mình. Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét và làm hại. Không đoán xét và không kết án. Không ăn gian nói dối, có thì nói có và không thì nói không. Đừng làm tổn thương danh dự người khác. Không chửi rủa anh chị em là khùng, là ngốc. Hãy tha thứ để được thứ tha. Đời sống vợ chồng phải gắn bó thương yêu, trung tín, nâng đỡ và giúp nhau nên trọn lành. Sự chân thật và công bình trong cách cư xử và giao tế sẽ xây dựng tình liên đới và tôn trọng lẫn nhau. Vì tình bác ái không biên giới sẽ là nhịp cầu giúp chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp trong tình yêu.
Chúa Giêsu rao giảng tin mừng cứu độ. Tin mừng là rượu mới phải đổ vào bình da mới. Chúa truyền dậy gồm tóm trong hai giới luật quan trọng nhất là: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác như chính mình. Nơi đâu còn có ganh tị, thù hằn và bạo lực, nơi đó đang vắng bóng tình yêu đích thực. Tin mừng dành cho những ai có trái tim mở rộng biết đón nhận yêu thương. Chúa Giêsu đã hiến trọn cuộc đời để minh chứng tình yêu cao cả. Không có tình yêu, sẽ không có ơn cứu rỗi. Không có tình yêu, thế giới con người sẽ bị lặng chìm trong đau thương của thù hận, chia rẽ và hủy hoại. Không có tình yêu, mọi thực hành tôn giáo trở thành trống rỗng và vô ích. Không có tình yêu, cuộc đời con người sẽ đi vào sự cô đơn bất hạnh. Đạo của Chúa là đạo của tình yêu thương. Hy tế thập giá là đỉnh cao của tình yêu dâng hiến. Tình yêu thập giá là sự khôn ngoan tuyệt diệu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, trong Mùa Chay Thánh này, xin cho chúng con biết tìm kiếm sự khôn ngoan đích thực nơi Chúa. Vì yêu, Chúa đã hiến thân trên thập giá để cứu độ chúng con. Đối với người đời, sự hy sinh thập giá của Chúa là sự điên rồ nhưng với người tín hữu, thập giá là lễ hy tế và là giá cứu độ. Xin cho chúng con nhận biết bài học vô giá nơi thánh giá của Chúa. Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
NHÀ TA LÀ NHÀCẦU NGUYỆN
Lm. Trần Bình Trọng
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Ðức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền bạc và mua bán súc vật trong quảng trường của Ðền thờ, Người liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Ðền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ (Ga 3:15). Luật Do thái cấm chỉ việc mua bán trong khu vực Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung thứ cho dịch vụ này. Việc dung thứ có thể hiểu được vì những người từ xa đến khó có thể mang theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ được hiểu là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết vì việc mua bán vẫn có thể được thực hiện bên ngoài các cổng ngoại tường Ðền thờ. Vậy nếu việc mua bán súc vật và đổi tiền được coi là tiện lợi cho những người từ xa tới, thì tại sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ?
Thưa rằng dịch vụ hối đoái để trả thuế Ðền thờ và mua bán súc vật để hiến dâng đã trở thành một việc chỉ nhắm mục đích thương mại. Người bán thì coi đó như là cách thế làm tiền, còn người mua thì phải mua một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến. Rồi súc vật hiến dâng phải chịu sự khám xét của nhân viên đền thờ để được chứng nhận con vật không có vết tì ố. Thực tế thì viên chức Đền thờ muốn có độc quyền cho người đấu thầu bán súc vật trong khu vực đền thờ cho nên người dân nghĩ rằng họ phải mua súc vật được đấu thầu bên trong thì mới được bảo đảm là con vật có đủ tiêu chuẩn cho việc hiến dâng. Rồi họ còn phải trả tiền khám xét súc vật nữa. Do đó người nghèo cũng phải mua súc vật của họ với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường.
Thứ đến việc đổi tiền để nộp thuế cho Ðền thờ cũng có gì không chỉnh. Theo luật Do thái, mỗi người nam công dân Do thái phải đóng thuế đền thờ, tương đương với hai ngày công. Ðức Giêsu cũng đóng thuế đền thờ (Mt 17:27). Thuế đóng cho Ðền thờ mỗi năm một lần bằng tiền Do thái vì tiền Rôma có hình vua ngoại đạo là Xêdarê, nên không được lưu hành trong Ðền thờ. Ðổi từ tiền Rôma hay những loại tiền ngoại quốc khác sang tiền Do thái phải trả tiền huê hồng đáng kể cho quầy đổi tiền.
Ðền thờ Giêrusalem đồ sộ, nguy nga và lộng lẫy vừa được xây cất lần thứ ba là qùa tặng của vua Hêrôđê, có lẽ nhắm mục đích chính trị hầu làm vừa lòng dân chúng hơn là sùng đạo. Như vậy không có vấn đề dân chúng phải trả nợ. Do đó dịch vụ buôn bán súc vật và đổi tiền chỉ còn đem tiền lời chồng chất lên ngân khố Đền thờ. Còn nhóm người đổi tiền và buôn bán súc vật cũng đã phải trở nên giầu có. Rồi hàng đại tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng phải có món tiền bỏ túi riêng. Vì thế mà Ðức Giêsu lên tiếng cảnh giác họ: Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2:16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng loã trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ. Phúc âm thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Luca còn ghi lại lời Ðức Giêsu trích dẫn sách ngôn sứ Isaia ghi: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện (Is 56:7), rồi dùng lời ngôn sứ Giêrêmia (Gr 7:11) để khiển trách họ vì họ đã biến nơi thờ phượng thành sào huyệt của bọn cướp (Mt 21:14; Mk 11:17; Lk 19:46).
Khi người Do thái hỏi xem Ðức Giêsu lấy dấu chỉ nào mà tỏ uy quyền làm như vậy, thì Chúa dùng cơ hội này tiên báo về việc phục sinh của Người: Các ông cứ phá huỷ Ðền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2:19). Ở đây Chúa muốn nói đến đền thờ là thân thể phục sinh của Người sau khi đã nằm trong mộ ba ngày, mà họ không hiểu. Ngay cả các môn đệ cũng chưa hiểu nổi. Khi có mấy môn đệ trầm trồ khen ngợi Ðền thờ, thưa với Chúa: Thầy xem kìa: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đai thay (Mk 13:1) thì Chúa trả lời: Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ (Mc 13:2). Năm bảy mươi sau công nguyên, tướng Titô của đế quốc La mã cho đem quân đội đến phá huỷ Ðền thờ, chỉ để chừa lại một phần của bức tường Đền thờ đế chứng minh cho hậu thế biết rằng quân đội La mã hùng mạnh đến thế nào. Trong một nhóm linh mục hành hương sang Thánh địa khi thăm một phần bức tường than khóc Đền thờ còn tồn tại, ghé vào tai linh mục bạn nói: Chu choa! Sao người ta có thể phá huỷ bức tường này vậy (khi chưa có chất nổ, xe tăng và xe ủi).
Phúc âm hôm nay nhắc đến việc các môn đệ nhớ lại lời Thánh kinh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa làm hao mòn thân tôi (Tv 69:10). Luật Chúa ban cho Mosê dậy dân Người phải giữ ngày Sabát (Xh 20:8-10) là ngày thứ Bảy, ngày thánh, ngày lễ nghỉ. Khi Ðức Giêsu sống lại vào ngày thứ Nhất trong tuần, Giáo hội mới chuyển sang ngày Chúa nhật để thờ phượng và nghỉ ngơi. Do lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa mà Giáo hội hoàn vũ cũng như giáo phận địa phương còn đưa ra những luật lệ nơi thánh đường và trong khuôn viên nhà thờ trong giờ thờ phượng công cộng để bảo đảm cho giáo dân khỏi bị chia trí trong khi thờ phượng. Vậy thì lòng nhiệt thành với việc nhà Chúa phải nhắc nhở cho ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, khi đến nhà thờ làm việc thờ phượng và cầu nguyện. Do đó Giáo hội đòi hỏi khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật để thờ phương cách công cộng, người công giáo nên ăn bận thế nào, tỏ ra những cử chỉ ra sao để giúp khơi dậy tâm tình đạo đức thích hợp. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng và nhắc cho con cháu tránh những cử chỉ và hành động gây chia trí cho người khác. Có linh mục kia nhận được lá thư của một người đàn ông có kí tên, mà ngài không quen biết, được trích nguyên văn như sau: Thưa Cha, tôi đi nhà thờ hằng ngày, hầu hết bảy ngày trong tuần và lần nào ở hàng ghế đầu, đều thấy mấy bà rất trẻ, rất khoẻ mạnh, mang hài cao, mặc váy ngắn, tóc tai ngắn ngủi, đi lễ rất trễ, cứ chạy xoong xoong lên hàng ghế đầu để gần các cha. Có những bà ăn mặc không được kín đáo, mà ngồi gần như vậy, thì không tốt mấy. Tôi xin Cha đề nghị với Cha sở xem có cách nào giảỉ quyết? Ông cha nhận được thư thì thắc mắc sao ông này có mắt quan sát hay thiệt.
Giáo hội còn đưa ra những nguyên tắc về phụng vụ, về thánh nhạc, về kiến trúc thánh và nghệ thuật thánh và mở những lớp huấn luyện nhằm cải tiến những bộ môn trên. Không cần phải đào sâu, mà chỉ cần hiểu biết sơ qua cũng thấy thánh nhạc, dụng cụ nhạc khí dùng trong nhà thờ và các cơ sở thánh thì mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, vật liệu và phẩm chất của vật liệu xử dụng phải khác biệt. Vậy thì những mầu sắc hay bóng đèn mầu loè loẹt nhấp nháy có thích hợp trong nhà thờ không? Người am hiểu nghệ thuật, kiến trúc và hội họa thánh khi đến thánh đường mà thấy không phải là nghệ thuật, kiến trúc và hội hoạ thánh, khiến họ có thể chia trí, khó chịu và còn ẫm ức nữa. Những xứ đạo nghèo ở miền quê, thì chưa có đủ điều kiện, khả năng và phương tiện để đạt tới mức độ khả quan đó thì người ta cũng thông cảm. Còn những xứ đạo lớn ở thành thị: có nhân lực, vật lực và nhân tài có thể gửi người đi học để được huấn luyện về kiến trúc và hội hoạ thánh, về những nguyên tắc phụng vụ và thánh nhạc và nhạc khí để rồi cho áp dụng.
Việc kiến thiết và tu bổ nơi thờ phượng công cộng nhất là trên cung thánh tại những xứ đạo có những điều kiện và phương tiện trên, phải nhờ đến kiến trúc sư có khả năng và được huấn luyện về kiến trúc và nghệ thuật thánh chứ không phải là việc làm vá víu có tính chất mộc mạc của thợ cây nhà lá vườn. Nếu công trình kiến trúc lớn và phức tạp, kiến trúc sư còn phải nhờ đến giới chuyên môn khác như kĩ sư điện, kĩ sư máy móc, kĩ sư âm thanh, kĩ sư ánh sáng, kĩ sư đo độ co dãn của vật liệu tuỳ theo thời tiết... Bức họa hình thánh để tôn kính cũng phải được nghiên cứu và theo dõi việc thực hiện của hoạ sĩ chứ không phải như cho vẽ tấm phông cho buổi trình diễn văn nghệ. Khuôn viên nhà thờ cũng phải được kiến thiết sao cho có vẻ thẩm mỹ làm đẹp mắt nữa.
Một linh mục kia có lần đến xin đồng cử hành cuộc Khổ nạn của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại một xứ đạo kia. Linh mục khách được trao cho cây thập giá có tượng chịu nạn để cho giáo dân hôn kính. Chiều đứng cây thập giá dài độ sáu mươi phân. Hình như cả cây thập giá và tượng chịu nạn làm bằng kẽm. Linh mục đó quan sát cây thập giá thấy chia trí vì không khơi dậy được tâm tình đạo đức. Chân tượng chịu nạn quá dài sánh vói thân hình tượng. Hai đầu gối giang ra quá xa và nhô lên quá cao khỏi thân cây thập giá cho thấy việc thiết kế tượng chịu nạn thiếu cân đối và thiếu nét thuần phong mĩ tục. Linh mục đó nói cầm thập giá bằng tay trái thấy khá nặng, rồi còn phải đưa chân tượng vào gần miệng cho giáo dân hôn kính và tay kia cầm khăn lau chân tượng sau mỗi lần có người hôn kính. Linh mục đó lại nói thấy hơi mỏi tay và còn phải cẩn thận kẻo nhỡ đầu gối của tượng chịu nạn đụng vào trán hay xương gò má của người hôn kính thì cũng có thể làm họ đau. Câu chuyện này có ý nhắc nhở việc cung cấp tượng chịu nạn cần cân nhắc xem chọn tượng nào, cho treo ở đâu và có nên dùng để cho giáo dân hôn kính, hầu khỏi làm họ chia trí không?
Nghệ thuật và kiến trúc thánh gồm biểu hiệu bàn đến ở đây là kiến trúc và nghệ thuật Kitô giáo. Do đó muốn hội nhập văn hoá mà đem nét văn hoá bản xứ vào mà không chọn lọc, đào thải và thích ứng, có thể trở thành lạc lõng, méo mó. Và khi đem một nét văn hoá hay phong tục không phải là Kitô giáo vào đạo Kitô, thì giống như việc cắt râu ông nọ cắm cằm bà kia vậy, nếu không cho rửa tội cho sản phẩm văn hoá và phong tục đó.
Tóm lại về phương diện tiêu cực tại nơi thờ phượng công cộng, phải giữ những kỉ luật nào đó để khỏi gây chia trí và than phiền nơi người đến thờ phượng. Còn về phương diện tích cực, thì tuỳ khả năng và phương tiện của mỗi địa phương, cần đạt tới mức độ tương xứng trong nghệ thuật thánh, kiến trúc thánh và việc cử hành phụng vụ để giúp người đến thờ phượng có tầm hiểu biết khá về các bộ môn trên đánh giá được vẻ đẹp được diễn tả qua các bộ môn liên hệ và giúp người chưa hiểu biết, để với thời gian, họ cũng thưởng thức được vẻ đẹp của kiến trúc thánh, nghệ thuật thánh và thánh nhạc mà ca tụng Ðấng sáng tạo.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tôn kính nhà Chúa:
Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và quan phòng muôn loài. Chúa hiện diện khắp mọi nơi, trên toàn cõi địa cầu. Ðặc biệt Chúa diện diện trong thánh đường nơi có Mình Thánh Chúa Kitô ngự trị. Xin dạy con biết tỏ ra tôn kính và yêu mến nhà Chúa, và cho con được tìm thấy nơi nhà Chúa nguồn sức mạnh, niềm an ủi và sự cậy trông của đời con. Amen.
Lm. Trần Bình Trọng
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nói về lề luật của Chúa và đền thờ của Ngài. Ngài ban bố lề luật qua ông Maisen và dùng Con Ngài là Đức Giêsu Kitô để nói về đền thờ. Luật của Chúa là đường lối dẫn con người đến hạnh phúc, còn đền thờ của Ngài là nơi chúng ta đến gặp gỡ, tiếp xúc với Ngài, hầu chúng ta tìm được niềm tin và sức mạnh cho tâm hồn.
Mỗi người có nhiều đền thờ vật chất nhưng chỉ có một đền thờ thiêng liêng là thân xác mình theo lời thánh Phaolô dạy:”Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao”?(1Cr 3,16). Chúng ta có nhiệm vụ phải tôn trọng và bảo vệ cả hai loại đền thờ đó bằng bất cứ giá nào dựa vào Thánh kinh:”Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi”(Tv 68.10). Hãy tôn trọng thân xác mình và đừng biến nó thành hang trộm cướp. Đừng để cho của cải vật chất chi phối tâm hồn mình. Hãy biến thần Mammon thành đầy tớ trung thành phục vụ ta, và hãy cố gắng biến thân xác và linh hồn mình thành”Ngôi Thánh Đường” của Thiên Chúa.
I. ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA.
Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).
1. Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm. Điều này rất phù hợp với thánh Luca 3,2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18.000 thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào.
2. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán.
Vào dịp lễ Vượt qua của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ:”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do :
a) Những khách hành hương.
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2 .200.000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ.
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
c) Việc đổi tiền.
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người đổi bạc chút ít tiền lời”. Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
3. Đức Giêsu bảo vệ đền thờ.
Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ:”Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”(Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng thánh Matthêu (21,14), Marcô (11,17),và Luca (19,36) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ:”Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp”(Is 56,7).
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.
II. ĐỀN THỜ CỦA CHÚNG TA.
1. Hai loại đền thờ.
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái :”Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành ? Người Do thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói : Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.
a) Đền thờ vật chất.
Đền thờ vật chất đây là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Bất cứ một giáo xứ nào, họ giáo nào cũng có một nhà thờ nhà nguyện để giáo dân qui tụ lại tôn vinh Thiên Chúa, nghe lời Chúa và dâng Thánh lễ. Nhà thờ có thể to hay nhỏ, tráng lệ hay bình thường, trang trí bằng mọi hình dạng nhưng luôn phải có vẻ trang nghiên đạo đức. Ngày nay các nhà thờ đang mọc lên rất nhiều, đó là một điều tốt nhưng rồi người ta lại lơ là với nhà Chúa, không chịu đi dự Thánh lễ, cầu nguyện, làm các việc đạo đức khiến nhà thờ trở nên... hoang vắng như nhiều nhà thờ ở bên Tây phương !
b) Đền thờ thiêng liêng.
Đền thờ thiêng liêng ở đây được hiểu là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói :”Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị”. Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin và những sự hiểu biết cần thiết về đạo và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.
2. Tôn trọng đền thờ chúng ta.
a) Nhiệt thành với đền thờ
Thánh kinh hôm nay nhắc nhở ta :”Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi”(Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác... Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.
Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.
b) Bênh vực nhà Chúa.
Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.
* Bênh vực đền thờ vật chất.
Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý : nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý , ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa : chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cửû chỉ khinh thường tha nhân... là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.
Truyện: Mahatma Gandhi vào nhà thờ.
Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng : Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.
Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin”! Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau:”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi ? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ”!
* Bênh vực đền thờ thiêng liêng.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa:”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em”.
Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói:”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.
Truyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài truyền hình Việt nam lại cho chiếu bộ phim “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trong quan điểm của đạo Tin lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo hội.
Câu chuyện về một Linh mục là cha Ralph. Ralph là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ cha Ralph, có một bà già qúi phái giầu có. Bà qúi mến cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành hận thù. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ : Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo hội Công giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo hội phải cử cha Ralph quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giầu có đã thành công : Cha Ralph dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện “sống độc thân vì Nước Trời” mà Cha đà khấn hứa (Theo Lm Đan Vinh).
3. Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ.
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn nói về đề tài nay : hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trich một đôi câu trong bài thơ này:
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu :
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
(Lm Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ: Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em. nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.(Theo Flor McCarthy)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.
Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.
1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
2. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" ( Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
3. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Ngày xưa Giêrusalem là Nhà thờ lớn, là nơi hành hương, là nơi muôn dân qui tụ về dâng lễ, cầu kinh. Ngày nay, mọi Đền thờ đều là nhà của Thiên Chúa, là nơi để cầu nguyện. Tin mừng của thánh Gioan hôm nay, cho chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ làm ô uế Đền thờ và Ngài chỉ ra Ngài chính là Đền thờ…
Lần đầu tiên chúng ta thấy Chúa Giêsu nổi giận đối với những người buôn bán nơi Đền thờ Giêrusalem như đang buôn bán chiên, bò, bồ câu và đặc biệt Chúa Giêsu lật đổ bàn ghế của những người đổi tiền bạc. Đây là cơn giận thánh của Chúa Giêsu bởi vì Ngài vẫn nói với các môn đệ: ” Hãy học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhượng”.Chúa Giêsu luôn bình thản trước những lời vua oan cáo vạ Ngài, trước những sự phản bội trắng trợn Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu tức giận, tỏ thái độ nghiêm khắc với những kẻ buôn bán, đổi chác tiền bạc dù rằng những ấy chỉ diễn ra nơi tiền đình Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu vẫn cương quyết chống đối lại những người này vì Ngài cho rằng nó gây ồn ào, bất kính đối với Đền thờ, nơi Ngài cho là nhà của Cha Ngài. Ngài luôn tôn kính Đền thờ và Ngài không muốn con người xúc phạm đến Đền thờ, đến Nhà của Cha Ngài, nơi đây người ta hành hương, đi dâng lễ cầu kinh và cầu nguyện. Chúa Giêsu không chấp nhận việc con người làm cho Đền thờ ra ô uế. Chúa Giêsu thấy cần phải thanh tẩy Đền thờ dù rằng Ngài biết việc ấy sẽ gây nguy hại cho tính mạng của Ngài. Ngài nói: ” Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây” (Ga 2, 16 ). Đem tất cả những thứ ấy ra khỏi nơi thờ phượng bởi vì chúng xúc phạm đến Cha của Ngài, xúc phạm đến chính thân xác, đến con người của Chúa Giêsu. Ngài muốn nơi thờ phượng phải là nơi tôn nghiêm, nơi tĩnh lặng, nơi thanh vắng, nơi con người, nhân loại gặp gỡ Thiên Chúa.
Người Do Thái lúc đó đâu có hiểu Ngài, đâu có nhận ra Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ trần gian. Do đó, họ vặn lại Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã nói thẳng thừng với họ: ” Cứ phá hủy Đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại “ (Ga 2, 19 ). Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng nào đâu họ có hiểu ! Và Đền thờ ở đây, Đền thờ Ngài nói tới là chính thân xác của Ngài, thân xác sống lại của Ngài sẽ là Đền thờ mới, nơi toàn thể nhân loại sẽ thờ phượng cách đích thực.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, nhưng đồng thời Ngài cũng muốn thanh tẩy tâm hồn mỗi người chúng ta và thanh tẩy các nhà thờ, các nơi thờ phượng của chúng ta bởi vì tâm hồn chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, nhưng nhiều khi chúng ta đã để chúng ra ô uế, do tội lỗi, do những bất xứng chúng ta xúc phạm đến Chúa. Nhiều nơi thờ phượng, nhiều nhà thờ chúng ta xây dựng hoành tráng, to tát bên ngoài nhưng việc đạo đức nhiều khi không đúng ý Chúa. Nhiều nơi tổ chức linh đình bề ngoài nhưng bề trong lại xa Chúa. Do đó, Chúa muốn chúng ta thanh tẩy nội tâm, thanh tẩy những gì bề ngoài không phù hợp với ý của Chúa vv…
Mỗi thánh lễ nơi một nhà thờ nào đó, chúng ta hiệp dâng cùng với linh mục. Chúng ta hiểu rõ rằng qua bí tích rửa tội chúng ta được tháp nhập vào trong Hội Thánh, và như thế, chúng ta được hội nhập, được tháp nhập vào một Đền thờ mới là chính thân xác phục sinh của Chúa. Nhà thờ là nơi thờ kính, là nơi cầu nguyện, là nơi tôn kính Chúa Cha qua Đức Kitô. Nhà thờ này còn quý giá hơn cả Đền thánh Giêrusalem xưa vì Đền thờ bây giờ chính là Con người Chúa Giêsu đã kinh qua cái chết và phục sinh.
Chúng ta luôn phải hiểu rõ rằng Đền thờ, nơi Thờ phượng hằng ngày chúng ta lui tới là nơi Chúa Giêsu ngự, là nơi Ngài qui tụ chúng ta lại và là nơi Ngài gặp gỡ chúng ta và ngược lại chúng ta được diễm phúc gặp gỡ Ngài. Nhà thờ còn là nơi có những mối quan hệ mật thiết với mỗi Kitô hữu hơn bất cứ nơi nao bởi đó là nơi có những kỷ niệm êm đềm nhất từ lúc chúng ta sinh ra cho đến khi chúng ta lìa đời. Nhà thờ là di sản quí báu của tổ tiên, cha ông chúng ta để lại.Nhà thờ là nơi qui tụ, họp mặt mọi người ta xứ họ để cảm tạ Thiên Chúa và xin ơn với Ngài. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ, bảo vệ và thanh tẩy Nhà thờ sao cho đẹp lòng Chúa và hợp với ý của Chúa.
Chúa đã phán: ”Khi Danh Ta hiển thánh nơi các ngươi, Ta sẽ tập trung các ngươi lại Từ khắp mọi nơi trên mặt đất. Trên các ngươi, Ta sẽ rảy nước trong ngần, Và mọi vết nhơ của các ngươi sẽ được tẩy sạch, Ta sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi“ (Ed 36, 23-26).
Lạy Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
- Đền thờ Giêrusalem là nơi qui tụ những ai?
- Giêrusalem trên nghĩa là gì?
- Tại sao lại phải thanh tẩy tâm hồn?
- Chúng ta phải có bổn phận và nghĩa vụ làm sao đối với Nhà thờ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Sống trong thời đại tự do khi mà người ta coi luật lệ như rơm rác và tự quyết định cho mình điều này đúng điều kia sai, chúng ta có thể tự hỏi số phận của 10 điều răn rồi sẽ ra sao đây. Thập giới thật sự có còn chỗ đứng hay là đã hơi cổ hủ lỗi thời? Việc Thiên Chúa trao ban thập giới cho ông Môsê trên núi Sinai đánh dấu ngày khai sinh ra đất nước Israen. Bởi thế đối với dân Do thái, tuân giữ lề luật trong đời sống hằng ngày không nhằm tới việc làm điều đúng, tránh điều sai, nhưng được coi là thể hiện trong cuộc sống mối tương quan với chính Thiên Chúa. Giữ giới luật, đối với họ, chính là đem tình yêu đáp lại khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, Đấng đã tự mình kết giao với dân Ngài. Họ xem những giới luật như là những điều khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa chia sẻ với họ như một quà tặng - như một lời mời gọi họ cư xử như chính Thiên Chúa chứ không phải là một thước đo lòng tuân phục - vâng lời nơi họ. Xã hội chúng ta tiến bộ và lý luận cao hơn dân Israen thời ông Môsê, nhưng đúng sai phải trái thì ngàn đời vẫn thế. Mười giới răn ngày xưa vẫn còn là cội rễ của đức tin chúng ta ngày nay. Bất cứ quốc gia nào không giữ được điều cơ bản này làm thành mẫu mực cho cuộc sống, thì quốc gia đó khó lòng tồn tại. Chúng ta vẫn còn cần đến thập giới vì chúng ta là gạch, là vữa để kết xây nên nền tảng vững chắc của một xã hội ổn định.
Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ, Đức Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Người đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như là những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi. Đền thờ hôm ấy không khác gì một chốn chợ búa náo nhiệt với kẻ mua người bán. Các con buôn có lỗi vì đã dùng nơi cư ngụ của Thiên Chúa làm nơi trục lợi ích kỷ cho mình. Họ không mấy quan tâm đến tinh thần thờ phượng đích thực. Chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu đã tái khẳng định mạnh mẽ vì lòng tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa và Nhà Chúa vì toàn bộ mọi việc diễn ra nơi đây đã biến thành nghi thức trống rỗng che mờ nhiệm vụ đích thực của đền thờ.
Cộng đoàn Kitô hữu thường tụ họp nhau mỗi Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và Tạ Ơn Thiên Chúa vì một tuần lễ đã qua. Mỗi một ngày của Chúa lẽ ra phải là một bước dẫn đưa chúng ta về quê trời, nhưng liệu có thật như thế chăng? Chúng ta có được gần Chúa hơn qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay là việc thờ phượng ngày Chúa Nhật lại trở nên xuống dốc, trở thành một nghi thức trống rỗng, một ước lệ của xã hội hay là một cái gì chúng ta phải làm chỉ vì người ta muốn chúng ta làm? Ngày Chúa Nhật lẽ ra phải làm cho chúng ta tôn vinh Thiên Chúa cao cả, ca ngợi thế giới mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, và chúc mừng mọi người quanh chúng ta. Thiên Chúa mong muốn chúng ta tôn thờ Ngài không chỉ bằng môi miệng hay cử chỉ bên ngoài. Thờ phượng Thiên Chúa có nghĩa là nói: "Chúa cao cả biết bao!", là tiếng đáp trả của chúng ta khi chúng ta nhận ra sự thiện hảo của Thiên Chúa trong cuộc sống chúng ta, nhất là khi chúng ta biết rằng có Chúa là chủ chiên chăn dắt, chúng ta không còn muốn gì, không còn sợ gì? Thờ phượng Thiên Chúa và cuộc sống hằng ngày của chúng ta không hề bị chia cắt nhau. Ngày Chúa Nhật chúng ta được mời gọi đi tới nhà thờ, còn ngày thường trong suốt tuần lễ chúng ta cũng được kêu gọi trở nên ngôi thánh đường ngay trong lòng xã hội chúng ta đang sống.
Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
ĐỪNG LÀM NHÀ CHA TA
THÀNH NƠI BUÔN BÁN
Tuyết Mai
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Người thấy ở trong Đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"(Ga 2,13-25).
Bài Đọc của tuần này làm tôi liên tưởng liền đến Bàn Thờ Tâm Hồn của chúng ta. Có phải tâm hồn của chúng ta hiện giờ y như là nơi buôn bán và đổi chác hằng ngày mà ít ai chịu để ý đấy hay không? Hay nói một cách khác là chúng ta cố tình không muốn nhắc đến để động đến tội lỗi của chúng ta, mà vô hình chung, chúng ta đã dần dần mời Chúa ra ngoài và thần dữ đã chễm chệ đột ngột đổi ngôi lúc nào trong tâm hồn chúng ta cũng không hay biết?. Vâng, thưa quả thật là y như thế! Bản tánh của con người thì ở thời đại nào cũng chỉ có thấy thờ Thiên Chúa ở trên môi trên miệng chứ Đền Thờ của Thiên Chúa không qua khỏi được chuyện lo làm tiền và làm giầu.
Tâm hồn của chúng ta mỗi ngày phải bận rộn, nhọc nhằn, suy nghĩ, lo lắng, bận tâm, bương chải, chạy ngược chạy xuôi, cũng chỉ mong cho được có bấy nhiêu. Lúc thật nhỏ còn ngồi mài đũng quần ở nhà trường thì được trong gia đình và thầy cô dậy dỗ cho là phải học thật giỏi thật xuất sắc để lớn lên làm được thật là nhiều tiền để muốn gì được nấy. Dậy dỗ con cái phải biết sống khôn ngoan để không thua thiệt bất cứ ai khi ra ngoài đời ngoài xã hội. Cho nên hễ ai khoẻ thì áp bức kẻ yếu không biết trên kính dưới nhường là gì. Và cái câu mà chúng ta thường được nghe thiên hạ những ai có tánh bi quan khi mình là người đến trễ hay là người đến sau người ta, than thân trách phận rằng: "Trâu chậm uống nước đục".
Tôi không thích câu nói này mấy khi nghe ai nói, bởi nó làm cho tôi có cảm tưởng cuộc sống quả tranh dành và bon chen. Một là thuộc loại người làm biếng nên không thích mất thời giờ ra đứng xếp hàng chờ để mua bán, để nộp đơn, để ghi danh, để xin việc làm, để.. .. mà chần chờ lai vãng đâu đó cho qua thời giờ và đến chậm trễ nên thường là bị đóng cửa, hết đồ tốt, không nhận đơn nữa vì đã đủ, hết hàng, v.v....; sau đó quay qua than với người này rồi than thở với người kia.. .. Hai là thuộc loại người bon chen lấn lướt không biết trên dưới trước sau là gì, miễn là mình được có trước là được. Mà không những có trước là được là xong là đủ đâu! Chẳng những có trước mà lại còn muốn tranh dành hết của những người đứng sau hay tới sau. Tận cùng mà xét ra thì không biết cái lỗi và cái tật xấu tranh dành, bon chen, lấn lướt này, bắt nguồn từ đâu mà có?. Cho nên con trẻ được học từ nơi cha mẹ, cô chú bác, anh chị em, bạn bè, học đường, và ngoài xã hội, những bản tánh thật xấu xa mà không nghĩ rằng đó là Tội. Cho nên chúng ta đã quen sống như thế từ nhỏ thì hình như mình và Đền Thờ Chúa là hai vấn đề hẳn là khác nhau!?
Khi nào tôi đến Nhà Thờ (Nhà Chúa) thì tôi khoác lên chiếc áo đến thăm Chúa một cách rõ ràng cho thiên hạ thấy rằng tôi nghiêm trang và đúng đắn, không quay ngang quay dọc, không nói chuyện riêng, theo dõi thật kỹ những gì vị Linh Mục làm trên Bàn Thờ. Đến giờ thì tôi cũng Rước Lễ như ai. Tôi cũng ráng ở lại cho đến khi Cha ban bình an của Chúa xong tôi mới ra về, và đó là những gì tôi đã làm những ngày Chủ Nhật tôi mang tâm tình để đến với Chúa của tôi. Còn ngoài ngày giờ tôi đi dự Thánh Lễ ra thì con người thật của tôi và của anh chị em ra sao?. Có phải diễn ra y như những sự việc buôn bán và đổi chác mà Chúa Giêsu đã phải giận dữ, quát mắng, và dùng roi mà quất ngả mọi thứ trong Đền Thờ đấy không?. Ai bảo con người là hiền lành, đạo đức, và thánh thiện?. Thưa duy nhất chỉ có Chúa Giêsu mà thôi!. Còn con người của chúng ta thì muôn đời là tội lỗi và đớn hèn trước mặt Thiên Chúa. Con người tội lỗi truy lại từ đời của ông bà tổ phụ Adong và Eva kia cơ mà, thì làm sao chúng ta khác hơn hai ông bà được cơ chứ!?.
Có phải tâm hồn của chúng ta luôn rối rắm, như cái tổ vò, như len rối, như mắc cưởi, như muôn ngàn sợi tơ ngang dọc của màng nhện giăng để giăng mắc những điều không muốn được nên Thiện nên lành thánh hay nên Thánh?. Như thế thử hỏi Chúa Giêsu không giận dữ sao cho được cơ chứ?. Ngài muốn vào Đền Thờ của Ngài mà Ngài không sao vào cho được trong khi bao nhiêu chướng ngại vật ngăn cản con đường Ngài vào Đền Thờ của Ngài trong Tâm Hồn của chúng ta.
Ngài không giận sao được khi cái bản thân này chính Cha Ngài đã ra công tác tạo nên chúng ta cho nên giống hình ảnh thương yêu rất dấu ái của Cha Ngài, mà nhìn xem cái công trình ấy! Con người mặc nhiên muốn quên lãng, thật vô tình, và vô ơn không dành cho Chúa được một ít thời giờ trong ngày để ca tụng. Để ca khen, tôn vinh, chúc tụng Thiên Chúa là Đấng vô song, là Thiên Chúa, là Chủ Tể của muôn loài trên khắp cùng vũ trụ.
Ngài không giận sao được khi hiểu lý do Ngài được Chúa Cha sai xuống trần để chết cho nhân loại tội lỗi này hay sao!?. Cho những con người mà mở miệng lại còn đòi Con Thiên Chúa cho xem Dấu Lạ để làm Tin hay sao? Hay cho những con người mà lòng dạ chúng không khác nào lòng lang dạ sói. Chúa không giận dữ sao được cơ chứ, hỡi nhân loại con người luôn sống vô ơn và bội phản.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã làm một việc rất là phải vì Ngài muốn Đền Thờ của Cha Ngài được nhân loại Tôn Thờ chứ không phải là một nơi để buôn bán và đổi chác. Ngài đã đuổi tất cả những con buôn này ra khỏi Đền Thờ Cha Ngài. Thưa những con buôn này là ai? Có phải những con buôn này là những gì dơ bẩn đang chất chứa trong tâm hồn của chúng ta hay không?. Có những khi chúng ta quá tội lỗi, quá u mê, quá chạy theo những gì mà ma quỷ chúng giăng trước mắt, chúng kiên nhẫn mà chiêu dụ chúng ta khi đã ăn quen thì linh hồn của chúng ta chúng sẽ lấy một cách dễ dàng mà thôi không?. Hỡi những ai còn đang ngủ mê, hãy tỉnh dậy mà canh thức, kẻo Chủ trở về mà không còn thời giờ để kịp hối cải và ăn năn đền tội. Nhờ bài đọc của tuần này, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh chúng ta, Ngài muốn chúng ta cùng dọn dẹp tâm hồn cho trong sạch để cùng với Ngài chuẩn bị con đường Hiến Tế và Hy Sinh. Con đường của Thập Giá. Con đường mà Ngài đã chọn để chết cho nhân loại tội lỗi bất xứng của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu! Con người nhân loại chúng con là chi? Sao Chúa lại yêu thương chúng con quá đỗi!? Ngài buồn phiền nhân loại chúng con, Ngài yêu thương chúng con cả khi chúng con tội lỗi ngập lụt. Luôn sống trong thù hận, gian manh, lừa đảo, bội phản, tham ô, mà Ngài chỉ có thể thốt lên được câu: "Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Trong Mùa Chay Thánh, xin cho chúng con cùng bắt chước Ngài Giêsu sống trong chay tịnh, để kiểm điểm lại chính mình và trở về hòa giải cùng với Thiên Chúa. Kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn. Yêu thương anh chị em như yêu chính mình. Tha thứ mọi người để được Chúa thứ tha. Để chúng con cũng xứng đáng được lê những bước chân theo Chúa, mang theo Thánh Giá của đời mình cho nên được giống Chúa hơn. Để có những chặng đường chúng con vấp ngã vì tội lỗi, xin Chúa ban thêm sức mạnh để chúng con có thể tiếp tục vác Thánh Giá đời mình theo Chúa cho đến cùng và được chết với Chúa trên Đồi Can-vê hay cho đến khi được Chúa thương gọi về Nhà Chúa là Nơi chúng con khao khát chờ đợi và mong được Tìm Về Chúa ơi!. Amen.
Tuyết Mai
SỰ LẠM DỤNG THÂN XÁC
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 – 11.02.12 vừa qua, chúng tôi có dịp tham quan Singgapor và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singgapor vì nghi ngờ qua đây làm nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan Singgapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền (200 USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09.02.12 khi ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả thực, nhìn lên truyền hình tối thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công – dung – ngôn – hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: “cái đẹp đang đè bẹp cái nết”. Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài – gái sắc nhưng có mấy ai tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua bán, làm ăn …
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay. Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm dụng … mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như: những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: “Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm giá con người là “nhân linh ư vạn vật”. Hãy sống cao thượng hơn các loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện Xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Lm. Ignatio Hồ Thông
Chúa Nhật III Mùa Chay nầy có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”.
Xh 20: 1-17
Bản văn Xuất Hành trình bày Thập Giới. Việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên của Thập Giới.
Ga 2: 13-25
Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, bởi vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
1Cr 1: 22-25
Ở giữa bài đọc I và bài Tin Mừng, bài đọc thứ hai được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô chiếm một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn sắp đến gần: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I Xh 20: 1-17
Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong bộ Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).
Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói nó là cơ sở của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong bộ Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào trong bối cảnh của cuộc Thần Hiện, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.
Có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài dị biệt. Điểm dị biệt dể thấy nhất chính là lý do khác nhau được nêu lên về việc tuân giữ ngày sa-bát trong hai bản văn. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn nầy đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.
1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới:
Tính chất cổ xưa của Thập Giới là chắc chắn. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.
Thập Giới được ban trong khung cảnh của cuộc Thần Hiện trên núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá nầy như đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua nầy nhận được tước hiệu: “Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật”. Chúng ta cũng không thể không liên tưởng đến vua Hy-lạp là Minos. Vào cũng một thời kỳ này, vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện suốt chín năm; sau đó vua ra sức làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình. Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.
2. Nội dung của Thập Giới:
Thập Giới trình bày một tổng đề của những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định để diễn tả lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định để diễn tả lệnh truyền phải làm: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12).
Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong một cuốn sách của Ai-cập có nhan đề “Những người đã qua đời”, ở đó người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:
Tôi đã không ăn cắp…
Tôi đã không giết người…
Tôi đã không nói láo…
Tôi đã không ngoại tình…
Tôi đã không làm chứng gian…
Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…
Luân lý của người Ai-cập gần với luân lý Kinh Thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay của dân Hy-lạp. Thập Giới được phân chia thành những giới luật, chúng nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.
- Bổn phận đối với Thiên Chúa:
Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được phủ phục thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn nầy chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến cả “ngàn đời”. Cách nói song đối nghịch đảo nầy diễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chưng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối tương quan của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.
Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh truyền: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Cách thức phát biểu nầy xuất hiện muộn thời hơn trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5, thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên) và chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ bút ký như ngôn sứ A-mốt và nhất là ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên).
Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh truyền nầy nhằm nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.
- Bổn phận đối với tha nhân:
Với những bổn phận đối với tha nhân Thập Giới trở về luân lý phổ quát, bởi vì chúng có giá trị luôn mãi và khắp nơi. Nhưng ở đây điều cốt yếu là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng những ý định ẩn kín ở trong lòng được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong tâm trí con người. Khẳng định nầy chuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng huấn lệnh “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Lệnh truyền nầy được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18).
3. Nét độc đáo của Thập Giới:
Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt nầy sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có vận mệnh đặc biệt.
Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.
BÀI ĐỌC II 1Cr 1: 22-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô mà chúng ta đã có dịp tìm hiểu nhiều đoạn văn trong suốt những Chúa Nhật Thường Niên trước đó. Đoạn trích ngắn mà chúng ta đọc hôm nay được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích dẫn nầy tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của nó rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.
1. Bối cảnh của bức thư:
Xin được nhắc lại vắn tắt: những bất hòa đã xảy ra giữa các tín hữu Cô-rin-tô về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ nầy, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân nói đến người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại nầy.
2. Thập giá đối với người Do thái:
Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a, Đấng ấy chứng thực tính chính thống sứ mạng của mình bằng những điềm thiêng dấu lạ, Đấng Mê-si-a đầy quyền năng đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng theo đó Đấng Mê-si-a đã có thể chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác, thánh nhân đã bị họ bách hại.
3. Thập giá đối với người Hy-lạp:
Đối với người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô rao giảng cho họ “Một Con Người”. Đoạn trích của bức thư nầy tự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.
4. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh:
Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo. Thập giá cũng không là một sự chứng minh. Nhưng thập giá chính là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ẩn dấu ở nơi sự kiện đó, là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.
Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nầy đó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách biệt Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân chủ ý giương cao “hình ảnh duy nhất của Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.
TIN MỪNG Ga 2: 13-25
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: Đức Giê-su phẩn nộ, “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài muốn nói rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.
Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt nầy, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài của nó; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo của nó: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.
1. Khung cảnh bên ngoài:
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi đã băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.
Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại nầy mà những kẻ bán súc vật được dùng vào các hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.
Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua:
Thánh ký nói với chúng ta “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái” thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.
Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nầy phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua của năm 28 sau Công Nguyên.
Khung cảnh lễ Vượt Qua nầy đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa nầy của Tin Mừng Gio-an). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).
Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn giáo sĩ …Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu của Dân Mới của Ngài và sẽ được gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gio-an:
Tin Mừng Gioan đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố nầy như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.
Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh ký muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a). Đức Giê-su đã được Gioan tẩy giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.
Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là thân thể của Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nầy đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Sau nầy, những kẻ tố cáo Ngài xuyên tạc lời của Ngài: “Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…” (Mt 26: 61). Điều mà thánh ký muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan dùng từ “Đền Thờ” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ “Đền Thánh” là nơi cực thánh của Đền Thờ.
Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (cốt yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành phách mạnh của phiên tòa nầy. Người đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.
Cuối cùng, thánh ký ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”; như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.
Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh nầy có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện nầy một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.
Lm. Ignatio Hồ Thông
THANH TẨY ĐỀN THỜ NƠI THÂN XÁC CHÚNG TA
Lm. Ignatio Trần Ngà
Chúa Giê-su rất hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Người mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giê-su và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, hai môn đệ Gia-cô-bê và Gioan nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng Chúa Giê-su liền quở trách Gia-cô-bê và Gioan vì đã tỏ ra không bao dung cũng chẳng có chút nhân từ. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục và hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu đóng đinh vào thập giá với những đớn đau khủng khiếp, Chúa Giê-su chẳng những không oán hận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Người.
Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Người không bao giờ nổi giận.
Dù rất hiền lành, Chúa Giê-su cũng không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Gioan 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất hiền lành khiêm nhượng. Đấng mà ‘cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!
Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa.
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giê-su cũng dạy rằng mỗi người chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy”. (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng Lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể để bồi bổ nó nên vạn lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên, Người nghiêm khắc lên án những người nầy: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn.” (Lc 17, 1-2)
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” ( Icor 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc, được xức dầu thánh hiến bằng Thánh Thần, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lm. Ignatio Trần Ngà
PHẢI BỊ THIỆT THÂN
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán và chiên bò, lật nhào bàn ghế và tung vãi tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti…
Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thày dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.
Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá ( église - church ): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ… là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.
Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do đức Giám mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.
Thanh tẩy Nhà Thờ (Église – Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư ? Chuyện lớn đấy ! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó
Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào ( x. Mc 2,27 ). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào ? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành “ người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều ( x.Mc 9,35 ). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng “cha chú” đó đây, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” cách này cách khác.
Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. “Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” ( Quản Trọng ). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây ? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành ( x.Mt 19,16-19 ). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.
Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức “thờ ngẫu tượng”. Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền” ( dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị ) như một vị thần, khi nói rằng không được làm tôi hai chủ ( x.Lc 16,13 ). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường.
Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…( 1 Cr 1,22 ). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.
Môn đệ không trọng hơn Thầy ( x.Ga 15,20 ). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.
Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
ĐỀN THỜ TÂM HỒN
Học Viện Đaminh
Kinh nghiệm về đền thờ của người Do Thái
Dân Do Thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Thiên Chúa. Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước. Từ đó, Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Người. Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, vua Đavít muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng, bước sang triều đại của vua con là Salômon, ý định của Đavít mới được thực hiện.
Dù đền thờ đã mấy lần xây rồi bị phá, nhưng đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, xã hội. Bởi lẽ đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do Thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thứ đến, Đền thờ Giêrusalem là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Sau nữa, đền thờ Giêrusalem còn là biểu tượng của sự thánh thiêng. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do Thái thường nói đến đền thờ.
Nhưng rồi qua năm tháng, ý nghĩa của đền thờ đã bị tục hóa, đền thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chỗ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Đức Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho đền thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho đền thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Đức Giêsu muốn chúng ta nội tâm hóa đền thờ, đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta để trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của Thiên Chúa.
Việc thanh tẩy đền thờ đích thực
Việc thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu hôm nay còn liên hệ với một đền thờ khác. Đền thờ còn cao trọng hơn so với đền thờ bên ngoài. Đền thờ đó là tâm hồn mỗi chúng ta mà như thánh Phaolô đã nhắc nhở: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?" (1Cr 3,16). Và chính Đức Giêsu cũng đã khẳng định điều này: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế." (Ga 4,21-24).
Ngẫm lại bản thân mỗi người, nhiều lúc chúng ta nhận thấy mình đã vô tình làm dơ uế đền thờ Thiên Chúa nơi chính tâm hồn mình. Nhìn vào bản thân mỗi người, có khi ta đến nhà thờ chỉ vì bổn phận, sợ sự dòm ngó của người khác về đời sống đạo của ta, nên ta tham dự phụng vụ với tâm trạng miễn cưỡng. Đi lễ nhưng lại không dám đến gần cộng đoàn mà lại đứng xa xa, đứng ở một góc nào đó và đôi lúc cũng chẳng chú ý đến thánh lễ mà chỉ ngồi nói chuyện với nhau. Mỗi khi có thái độ như vậy là ta đã vô tình biến nhà thờ thành nơi buôn bán rồi.
Chiêm ngắm thái độ của Đức Giêsu đối với những người buôn bán trong đền thờ, ta ước sao mình có thái độ cương quyết trước những thoả hiệp, nhượng bộ chiều theo điều xấu của bản thân; cũng như không cậy vào sức riêng của bản thân nhưng biết nương tựa vào ân sủng của Thiên Chúa, để hằng ngày chúng ta thanh tẩy đền thờ tâm hồn, loại đi những gì là ô uế, đam mê, tội lỗi khỏi tâm hồn mình, để từ đây, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thật sạch và đẹp cho Chúa ngự vào.
Gợi ý chia sẻ:
Dịp Mùa Chay này, anh chị em có quyết tâm gì trong việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mình?
Học Viện Đaminh
VÌ NHIỆT TÂM VỚI VIỆC NHÀ CHÚA
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Không được buôn bán ở đây
Trong cuộc đời công khai của Ðức Giêsu, câu chuyện Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Ðền Thờ là một trong những chuyện được biết đến nhiều nhất. Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này. Nhiều nhà điêu khắc và hoạ sĩ cũng trình bày biến cố này theo nhiều phong cách khác nhau.
Từ trước đến nay, và mãi về sau vẫn thế, Ðức Giêsu vốn được nhìn nhận là nhà giảng thuyết về tình yêu. Trong câu chuyện này, Người bước vào khuôn viên Ðền Thờ, tay cầm roi, mặt bừng bừng giận dữ. Người xua đuổi những kẻ bán bồ câu, bò và chiên ; Người đổ tung tiền của những người đổi bạc, và lật nhào bàn ghế của họ. "Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
Cách đây không lâu, bên bờ hồ, cũng chính Người đã công bố các mối phúc thật, trong đó có mối phúc : Phúc thay những ai hiền hoà ...
Ðức Giêsu là một người bạo động hay bất bạo động?
Tại sao Ðức Giêsu lại nổi giận như thế ? Thánh Gioan trích lại một câu Thánh vịnh như là chìa khoá : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa ... Như thế, ở đây là một cảnh nói về sự ghen tương của Thiên Chúa. Kinh Thánh vẫn thường mô tả về một Thiên Chúa hay ghen, Người không chấp nhận sự chia sẻ. Cơn giận của Ðức Giêsu diễn tả mối ghen tương này : Người không cầm mình được khi nhìn thấy người ta xúc phạm, làm ô uế ngôi nhà nơi Thiên Chúa gặp gỡ dân Người.
Hãy thử tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện, vì trong đó bao hàm nhiều ý nghĩa trái ngược nhau.
Trước hết, Ðức Giêsu không xử với những người buôn bán như là những người buôn bán. Người không tố cáo họ làm ăn bất chính, nhưng Người tố cáo họ, vì họ không tôn trọng nơi được gọi là nhà của Thiên Chúa.
Cũng cần phải hiểu về ý nghĩa của Ðền Thờ lúc bấy giờ. Ðây không phải là một đền thờ trong số muôn ngàn đền thờ. Ðây là Ðền Thờ duy nhất, nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, một nơi mà mỗi năm, người Do-thái phải hành hương để dâng của lễ và nộp thuế.
Ðền thờ Giêrusalem thực sự là trung tâm mọi sinh hoạt của người Do-thái. Chỉ vì một lý do duy nhất là dân Do-thái phải tản mác khắp nơi nên các hội đường mới được xây dựng càng lúc càng nhiều để họ có nơi thờ tự.
Chính vì vậy người ta thấy được ý nghĩa sâu xa của trình thuật này, ý nghĩa vượt lên trên cả không gian lẫn thời gian. Khi nói về Ðền Thờ, Ðức Giêsu gọi là "nhà Cha tôi", và như thế Người là Con. Người còn cho biết, nếu người ta phá huỷ Ðền Thờ này đi, thì trong ba ngày Người sẽ xây dựng lại.
Nhưng đền thờ đó là đền thờ nào ? Chắc chắn Ðức Giêsu không có ý nói về đền thờ Giêrusalem : đền thờ này sẽ bị phá huỷ hoàn toàn ít năm sau đó, nhưng Người muốn nói về chính thân xác Người.
Sau này các môn đệ sẽ hiểu rằng đây là lời báo trước về Phục Sinh. Cuộc phục sinh của Ðức Kitô sẽ chứng tỏ rằng Người có quyền để cải tổ việc thờ phượng, đổng thời cũng cho thấy mối nhiệt tâm của Người dành cho nơi Thiên Chúa ngự.
Có lẽ chỉ ngay sau khi Ðức Giêsu ra khỏi Ðền Thờ, những người buôn bán sẽ tiếp tục hoạt động của mình. Tuy nhiên câu chuyện là một lời tiên tri về các hoạt động của Ðức Giêsu. Dưới ánh sáng phục sinh, Người sẽ bày tỏ dung mạo Tin Mừng của việc thờ phượng Người đã thiết lập : từ nay con người của Ðấng Phục Sinh sẽ là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ðó là sức mạnh tiềm ẩn trong những hành vi mà bên ngoài xem như là không có hiệu quả. Những hành vi này khơi dậy và làm vang lên lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng mời gọi con người hướng tới tự do, tới những điều mới mẻ, tới điều không thể được.
Con người là Ðền Thờ
Thay vì minh chứng những cơn giận thánh của Thiên Chúa và con người, thay vì những nhận định với mục đích trấn an về tâm lý nhân loại của Ðức Giêsu, có lẽ việc suy niệm về ý nghĩa của Ðền Thờ phải là trọng tâm của phần lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay.
Ðền Thờ - nhà tù
Nếu người ta coi Ðền Thờ là nơi duy nhất để tế tự, thì chuyện những người buôn bán có mặt ở đây là điều bình thường. Họ cung cấp các loại thú vật, đèn nến dành cho việc tế tự như luật định. Họ phục vụ cho những người đến Ðền Thờ để chu toàn bổn phận của mình.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra ở đây lại khác : Thiên Chúa ở đâu ? Ai đã đặt Người ở bên ngoài cuộc sống, trong vòng rào của những nơi thờ tự, ai đã giam hãm Người trong vai trò một người chỉ để đón nhận các nghi thức ? Thưa chính con người.
Ai đã vạch ranh giới giữa hai vùng đất, đất thánh (Ðền Thờ) và đất phàm ? Ai đã chia cắt Thiên Chúa ra khỏi dân Người, là nơi mà trước đây, Người vẫn dạo chơi - theo cách nói của vua Ða-vít - ? Cũng chính là con người.
Những người buôn bán trong Ðền Thờ là hình ảnh minh hoạ mối tương quan đã bị hiểu sai lạc giữa con người và Thiên Chúa, được coi như một thứ thuế giữa miền đất của con người và vương quốc của Thiên Chúa. Chính vì vậy Ðức Giêsu đã cầm roi để xua đuổi họ. Người muốn trả lại cho Ðền Thờ ý nghĩa nguyên thuỷ và cao cả.
Con người - Ðền Thờ
Cũng thật là sai lạc khi muốn giải trừ Thiên Chúa vào kinh nghiệm thiêng liêng của đời sống cá nhân. Ðặt Thiên Chúa quá ở bên ngoài hay quá ở bên trong cũng là một thứ áp dụng quyền bính trên Thiên Chúa. Ðây chính là cám dôỵ lớn nhất kể từ thời Sáng thế cho đến khi Ðức Giêsu chịu cám dôỵ trong sa mạc.
Việc Ðức Kitô nhập thể là một dấu chỉ tuyệt vời về Ðền Thờ của Thiên Chúa. Ðền thờ ấy là một con người với cả thể xác lẫn tinh thần. Một hiện hữu toàn diện trở thành nơi gặp gỡ với Thiên Chúa.
Ðức Giêsu Kitô, Thiên Chúa trở thành xác phàm, trao ban chính thân thể Người làm của ăn, và máu Người làm của uống, tức là Người trao tặng sự sống của Người để trở thành sự sống của nhân loại. Trong Ðức Giêsu, Thiên Chúa tìm lại được vị trí đích thực của Người.
Mỗi người là một đền thờ
Từ những suy nghĩ trên, chúng ta còn phải đi xa hơn. Ðức Kitô vẫn đang sống trong Thánh Thể. Và thân thể này, cũng chính là Hội Thánh. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô : "Anh em là thân thể Ðức Kitô" (1 Cr 12,27), "Anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa" (1 Cr 3,16).
Như vậy, trong thực tế, Ðền Thờ của Thiên Chúa là mỗi người chúng ta. Mỗi người cần phải xua đuổi, phải khử trừ tất cả những gì làm cho đền thờ này ra ô uế, không còn xứng đáng với danh hiệu nhà của Thiên Chúa. Những người buôn bán trong Ðền Thờ sẽ không còn là những người trao đổi hàng hoá trong khuôn viên Ðền Thờ để mưu sinh, nhưng là chính chúng ta, mỗi người chúng ta, từ nơi sâu nhất của chính mình, ngổn ngang vì những mối bận tâm đầy ích kỷ, gian dối và giả trá.
Như thế, đền thờ cần phải được thanh tẩy chính là tâm hồn chúng ta, ngõ hầu đền thờ ấy xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa chứ không phải là hang trộm cướp. Tâm hổn chúng ta phải được thanh tẩy khỏi mọi thứ chướng khí và mọi thứ lừa đảo, bởi vì đó phải là nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, phải là đền thờ không gì đáng chê trách, phải là nhà để cầu nguyện.
Theo lời thánh Phê-rô, Ðền thờ của Ðức Giêsu được xây dựng bởi những "viên đá sống động". "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, ở giữa họ" (Mt 18,20). Ðó chính là thân thể Ðức Kitô đang lớn lên giữa lòng nhân loại. Ðó chính là một đền thờ với những khuôn mặt, những bàn tay, những trái tim, mà chất xi-măng để gắn lại là sự gặp gỡ, chia sẻ, cùng đón nhận Tin Mừng và cùng tạ ơn ...
Hội Thánh được xây nên nhờ những con người, trước khi là một ngôi nhà bằng đá. Khi nghĩ đến câu nói của Ðức Giêsu về ngày sa-bát, người ta có thể thêm : "Các nhà thờ được xây dựng nên vì con người, chứ không phải con người vì các nhà thờ." Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn sống động khi cộng đoàn Kitô hữu sống động. Ðền thờ của Thiên Chúa vẫn đang sống khi mỗi con người để cho chất men Tin Mừng hoạt động trong đời của mình.
Thiên Chúa ngự trong Ðền Thờ nhưng không bị giam hãm trong đó. Chính Người đã dẫn dân Ít-ra-en về Ðất Hứa, nhưng Người cũng yêu thích ngọn gió lay động các căn lều, Người cũng yêu thích những cuộc lên đường vào buổi sớm mai. Ðức Giêsu đã rảo khắp các nẻo đường, từ thôn quê tới thành thị, và Người tuyên bố Người là Ðường. Từ nay, Ðền Thờ có mặt khắp nơi, rất tế vi và không thể nắm bắt được - giống như ánh sáng. Và điều bí nhiệm để Người xây dựng nên Ðền Thờ ấy, chính là sự Phục Sinh.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
BÀI ĐỌC THÊM
NGHỊCH LÝ CÂY THẬP TỰ
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
“Thương ôi, con Đức Chúa Trời ra đời làm người, chịu trăm nghìn sự thương khó vì tội thiên hạ”.
Lời ngắm bi thương thống thiết đưa ta về với một hy lễ đẫm máu trên đồi Canvê năm xưa. Trên cây Thập tự, Đức Giêsu hiến mình làm giá cứu chuộc nhân loại. Có biết bao cái chết mỗi ngày mà sao cái chết của người có tên là Giêsu cách đây hai ngàn năm lại được lưu danh hậu thế? Có bao dụng cụ hành hình mà sao cây gỗ năm xưa lại trở thành biểu tượng của những cảm xúc thiêng liêng? Thưa, vì Đấng chịu treo trên cây gỗ là Con Thiên Chúa làm người. Có người phê phán các Kitô hữu “tôn thờ một dụng cụ hành hình, một biểu tượng của tội ác”. Không! Các Kitô hữu không thờ một cây gỗ, mà là thờ Đấng chịu treo trên cây gỗ đó. Không có Chúa Giêsu, cây gỗ sẽ trở thành vô nghĩa, vô hồn. Một Đức Giêsu không trải qua Thập giá sẽ không còn là Đức Giêsu của đức tin. Chúa đã quở trách ông Phêrô là “Satan”, khi ông muốn can ngăn Người bước vào cuộc khổ nạn (x. Mt 16,21-23).
Từ 2.000 năm nay, cây Thập tự đã khơi nguồn gợi hứng cho biết bao tác phẩm văn chương nghệ thuật, làm cho chúng sống mãi với thời gian. Nơi cây Thập tự, chúng ta học được nhiều bài học để sống làm con người và làm con Chúa. Một dụng cụ hành hình đã trở nên biểu tượng của tình yêu. Xem ra cây Thập tự mang nhiều nghịch lý cuộc đời.
“Hận thù - yêu thương”: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mc 15,14). Những tiếng la hét giận dữ, những nắm đấm giơ lên, những khuôn mặt hừng hực căm thù, đó là bức tranh diễn tả khung cảnh “pháp đình” vào lúc Đức Giêsu bị kết án. Những kỳ mục Do Thái đã căm thù và muốn giết Chúa, như thanh toán một nhân vật nguy hiểm đối với họ. Hậu quả là cái chết của một người vô tội. Bản án được tuyên là tử hình thập giá. Cả khi Đức Giêsu đã bị treo trên Thập giá, họ vẫn còn nguyền rủa, thách thức: “Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền!” (Mt 27,42). Tuy vậy, nếu con người muốn kết án Chúa bằng khổ hình thập giá để thoả mãn sự ghen ghét của họ, thì Đức Giêsu lại muốn biến Thập giá thành biểu tượng của tình yêu. Cây Thập giá là nơi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài đối với thế gian một cách mãnh liệt nhất. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đức Giêsu đã lấy yêu thương đáp lại hận thù. Người đã thể hiện điều đó qua lời xin Cha tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Người tín hữu hôm nay, khi cầu nguyện trước Thập giá, được nghe lời mời gọi hãy yêu thương, tha thứ. Nếu biết sống sứ điệp của Thập giá, thế gian sẽ hết hận thù, tình yêu sẽ tràn đầy mặt đất. Thập giá là bí quyết của sức mạnh vượt lên chính con người ích kỷ của mình, đem lại sự bình an và tha thứ cho anh chị em.
“Sự chết - sự sống”: Các tác giả Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu đã làm cho nhiều người đã chết được sống lại. Qua những phép lạ này, Chúa chứng minh Người là Đấng đến để ban sự sống cho nhân loại. Như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để nảy mầm, trên cây Thập giá, nguồn sự sống đã chấp nhận chết đi để ban sức sống mới cho muôn người. Một số kỳ mục và người dân Do Thái đã hoan hỉ vì thấy người mà họ căm ghét đã bị giết chết. Họ trở về mừng lễ Vượt qua, kỷ niệm biến cố Chúa giải phóng tổ tiên họ năm xưa. Họ nhắc bảo cho nhau những điều kỳ diệu Chúa đã làm khi dẫn đưa cha ông họ ra khỏi Ai Cập. Ra khỏi Ai Cập là ra khỏi sự chết, là ra khỏi cảnh nô lệ. Cũng chính trong đêm kỷ niệm kỳ diệu ấy, Đức Giêsu đã ra khỏi mồ. Người ta đã giết Chúa, nhưng Người đã sống lại. Cái chết không phải là câu nói cuối cùng của Thiên Chúa. Ngôi mộ chẳng là chặng dừng vĩnh viễn của kiếp con người. Cây Thập giá vừa là “giường Vua Cả nằm khi sinh thì”, đồng thời cũng là thửa đất phì nhiêu để hạt giống nảy mầm sinh sôi. Cây Thập giá đã trở thành cây trường sinh, là phản diện của cây trái cấm ở thuở ban đầu của lịch sử. Ngôi mộ trống của ngày thứ nhất trong tuần là ngôn ngữ sống động minh chứng quyền năng Thiên Chúa. Từ ngôi mộ này, một cuộc sáng tạo mới đã được khởi đầu. Đó cũng là nơi con người tìm thấy câu trả lời cho những vấn nạn về sự chết và đau khổ đang giày vò biết bao thế hệ. Nhờ cây Thập giá, sự chết được biến đổi thành sự sống, đau khổ đã trở thành niềm vui. Mỗi khi ngang qua những nấm mộ có cây Thập giá, chúng ta nhìn thấy mầm sống tương lai đang hé mở, đem lại niềm hy vọng cho người đang an nghỉ. Triết lý “hạt giống mục nát để nảy mầm” cũng là ơn gọi của người tín hữu chúng ta. “Ai yêu quý mạng sống mình ở đời này, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Vâng, người tín hữu đang chết đi mỗi ngày qua sự sám hối hy sinh và dấn thân phục vụ, để họ được sự sống siêu nhiên, được hạnh phúc hôm nay và mãi mãi.
“Người kết án - Người bị kết án”: Philatô với cương vị là một người chủ toạ phiên xử cho bị cáo có tên là Giêsu, lại tỏ ra lúng túng trước những câu trả lời của Chúa. Vào lúc ông muốn chứng tỏ uy quyền của mình, thì ông được nghe Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chăng ban cho ngài” (Ga 19,11). Chính Philatô cũng phải thừa nhận Đức Giêsu vô tội (x. Ga 19,4), nhưng vì hèn nhát trước làn sóng phản đối dữ dội kèm theo những lời đe dọa của người Do Thái, ông đã chấp thuận lên án tử cho Chúa. Ngàn ngàn năm sau, con người hèn nhát đó vẫn không thoát trách nhiệm: “Thời quan Phongxiô Philatô, Người chịu khổ hình và mai táng…”. Đối diện với Philatô, Đức Giêsu nhắc ông hãy nhìn lại mình. Hãy nhận ra những quyền lực mình đang có chẳng phải do công lao cá nhân, nhưng là do Trời ban cho, vì vậy cần phải xử sao cho hợp với “lòng dân, ý Trời”. Trên cây Thập giá, Đức Giêsu cũng đã hành xử quyền thẩm phán của Người. Thật là nghịch lý khi thấy một con người đang bị treo trên cây gỗ lại mạnh mẽ tuyên bố với một tử tội khác: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Đó chẳng phải là một lời cầu chúc mà là một lời tuyên bố dứt khoát. Đức Giêsu trên Thập giá đã tỏ cho mọi người thấy vương quyền của Ngài. Vì thế, với ngọn bút của tác giả Tin Mừng Thánh Gioan, Thập giá vừa là khung cảnh thương đau, nhưng cũng là nhạc khúc huy hoàng. Chẳng phải vô cớ mà tác giả ghi lại chi tiết tấm bảng trên đầu Thập giá được ghi bằng 3 thứ tiếng: Dothái, Latinh và Hylạp. Điều này mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt: tiếng Dothái là ngôn ngữ của tôn giáo, của Thánh Kinh; tiếng Latinh là ngôn ngữ hành chính, xã hội thời Đế quốc Lamã; tiếng Hylạp là ngôn ngữ của một nền văn hoá đương thời phồn thịnh. Đức tin vào Đấng chịu đóng đinh đã, đang và sẽ được trình bày với mọi tôn giáo trong tinh thần đối thoại tương kính; được giới thiệu cho mọi nền văn hoá như chất men làm thăng hoa những giá trị nhân bản; được loan báo cho mọi giai tầng xã hội để cổ vũ nhân ái, xây dựng một nền văn minh tình thương. Đức Giêsu đã qua đau khổ đạt tới vinh quang. Những ai muốn làm môn đệ của Người không thể chối từ thập giá, nhưng được mời gọi cùng Người vác thập giá đời mình, trong tình mến Chúa và những dấn thân phục vụ anh em.
“Điên dại - khôn ngoan”: “Lời rao giảng về Thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa… vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1,18.25). Trải suốt bề dày của lịch sử, biết bao người đã “điên dại” chọn cây Thập giá làm lẽ sống cho đời mình. Vào thời cấm cách, người ta không thể hiểu tại sao có những tín hữu Việt Nam, từ người học thức đến người bình dân, từ người làm việc triều đình đến người nông dân nghèo khổ, bị “nhiễm bệnh Thập giá” đến nỗi thà chết chứ không bước qua cây gỗ. Họ bị kết án là những kẻ phản bội triều đình. Họ bị coi là những người điên. Ấy vậy mà họ vẫn vui vẻ và sẵn sàng đón nhận cái chết. Thánh Anrê Kim Thông (1790–1855) đã trả lời quan khi vị này ép ông đạp lên Thập giá: “Thánh giá mà tôi tôn thờ hôm qua thì hôm nay tôi không thể bước lên được”. Cũng vậy, ở tuổi đời 72, Thánh Phêrô Tuần (1766–1838) đáp lại: “Tôi thật đã già yếu lại ốm đau, nhưng tôi tin Thiên Chúa sẽ ban cho tôi đủ sức mạnh để chịu mọi hình khổ và ngay cả cái chết vì Ngài nữa”. Và thế là, vì từ chối bước lên Thập giá, “từng đoàn người anh dũng bước lên pháp trường” trước nỗi kinh hoàng và thán phục của những người đại diện cho quyền lực thế gian. Các Thánh Tử đạo đã chấp nhận tiếng người đời cho là điên dại để được khôn ngoan suốt đời, vì các ngài xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ơn gọi của người tín hữu là bước theo Đức Giêsu. Nhưng con đường Người đã đi là con đường Thập giá, vì thế mà chúng ta không thể chọn con đường khác. Muốn nhận nụ hôn của Chúa, thì phải chấp nhận sự đau đớn gây ra do những chiếc gai trên đầu Người. Đường Thập giá là đường đau khổ, nhưng cũng là con đường đem lại cho chúng ta niềm vui thiêng liêng.
“Lạy Chúa Giêsu, chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa, vì Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc chúng con”. Vâng, chúng ta hãy đến thờ lạy, hãy đến lắng nghe và đón nhận những bài học của Thập giá. Câp Thập giá là nguồn gợi hứng bất tận cho những suy tư đạo đức của chúng ta, nếu chúng ta đến với Thập giá với đức tin, với lòng khiêm tốn và chân thành.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
i lòng khiêm tốn và chân thành.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên