LỄ ĐỨC BÀ DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH
- Thứ tư - 01/02/2023 20:54
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Lc 2, 22-40

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng
Thiên Chúa rằng:
29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người.34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng;35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm,37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê.40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta một câu chuyện rất đẹp về quãng đời thơ ấu của Đức Giê-su: Đức Mẹ và thánh Giu-se đã cùng nhau đem con đến đền thờ để làm phép thanh tẩy. Đây là biến cố quan trọng khai mở rất nhiều điều, giúp chúng ta nhận ra được phần nào đó ý định của Thiên Chúa và thân phận của nhân loại chúng ta.
Người đã trở nên giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Điều này được thấy rất rõ trong thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Híp-ri: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải các Thiên Thần mà là con cháu Áp-ra-ham. Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị thượng tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa hầu đền tội cho dân”. Quả đúng là như thế! Thiên Chúa đã chấp nhận đến với thế gian bằng cách mặc lấy xác phàm của nhân loại. Người là Đấng quyền năng nhưng lại bị gắn chặt vào thế gian bởi đã cam tâm tình nguyện chấp nhận điều đó. Biến cố hôm nay cũng là một phần trong cái giới hạn của con người. Hài Nhi Giê-su cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, đều phải lên đền thờ để được dâng cho Chúa theo như những gì sách luật đã chép: mọi con trai đầu lòng đều phải dâng cho Chúa. Việc “trở nên như chúng ta” quả thực là một “sáng kiến” không tưởng của Thiên Chúa. Có lẽ, không một ai có thể mường tượng Đấng siêu việt, vô chừng lại bị giới hạn vào một con người hữu hạn; Đấng sáng tạo và ban bố lề luật giờ đây lại phải chịu chi phối bởi lề luật… Tất cả những điều đó Thiên Chúa làm cốt để cho con người nhận ra được hình ảnh một Thiên Chúa hiện diện cách chân thực và chia sẻ thân phận khốn cùng với con người. Nhưng để làm gì?
Để cứu độ chúng ta! Chính trong những lời đầy ân sủng mà Si-mê-ôn, nhờ Thần Khí, đã tuyên bố, chúng ta nhận ra điều đó. “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Người”. Thiên Chúa đến mang thân phận con người để cứu độ chúng ta. Ơn cứu độ này không đơn thuần chỉ là một lời phán bảo của một Thiên Chúa nào đó nơi trời cao xa thẳm, mà là một con người Giê-su với những lời đem lại sự sống phát xuất từ chính thân xác phải chết của nhân loại này. Tức là Thiên Chúa đã nhập thể để nâng con người chúng ta lên một tầng cao mới; để trở nên gương mẫu và nguồn động lực cho chúng ta sống đức tin.
Con người
Sau khi đã phần nào nhận biết về Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng nhìn về phía đối diện, là con người chúng ta, để nhận thức ra chúng ta cần làm gì để xứng đáng với Thiên Chúa. Và cụ già Si-mê-ôn và nữ ngôn sứ An-na chính là hình ảnh mà con người chúng ta cần phải hướng đến.
Sống theo Thánh Thần. Ở một thời đại mà dường như chúng ta đang mất dần phương hướng, và bị lèo lái bởi rất nhiều những trào lưu và tư tưởng, như ngày nay, thì việc sống theo Thánh Thần là việc tối cần thiết. Tình dục, tiền bạc, danh vọng, các trục trặc trong tương quan gia đình đang làm cho con người bị cuốn theo và quên dần đi sự xuất hiện của một Thiên Chúa nhập thể. Nhìn vào đời sống thực tế và thông tin đại chúng thì chúng ta sẽ phải công nhận điều vừa nói. Những thứ đó làm cho đời sống đức tin của chúng ta dần trở nên mù mờ, và bị giằng xé giữa hai thế cực: thế gian và đức tin. Cụ già Si-mê-ôn và ngôn sứ An-na là một gợi ý cho đời sống đức tin của chúng ta. Tin Mừng nhắc đến hai ông bà như là người được tràn đầy Thần Khí, tức là nơi hai ông bà có sự hiện diện của ân sủng nơi Chúa Thánh Thần. Chính nguồn ân sủng này thôi thúc cũng như gìn giữ ông bà luôn khao khát và trông đợi để tận mắt nhìn thấy ơn cứu độ mà ông bà hằng ao ước. Ơn cứu độ ấy chính là Đức Giê-su. Người là cách thức và con đường để con người có thể đến với Thiên Chúa, đến với ơn cứu độ của Người.
Qua trình thuật Tin Mừng hôm nay, ước gì chúng ta luôn tâm niệm cho mình Thiên Chúa là Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Người cao cả quyền năng nhưng cũng chia sẻ mọi khó khăn vất vả của nhân loại. Đồng thời, ước gì chúng ta cũng biết để mình nghe theo tiếng nói của Thánh Thần, ngõ hầu chúng ta có thể bền tâm vững chí mà trông chờ cho đến ngày chúng ta được cứu độ thực sự trong ngày Chúa quang lâm.