“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” Đó là Lời Chúa.
Suy Niệm:
Từ trước năm 1533, người dân Việt Nam chưa hề biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu. Hầu hết dân chúng theo đạo Phật, Nho giáo hoặc thờ cúng ông bà.
Thế rồi, có những vị giám mục, linh mục từ tây phương đến truyền đạo tại đất nước chúng ta. Việc gieo vãi hạt giống đức tin vào cánh đồng Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ:
- Vua chúa thời đó (Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, Nhà Tây sơn, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) đã ban hành 53 sắc chỉ nhằm khai trừ và tiêu diệt đạo Chúa, trục xuất các nhà thừa sai, nhiều linh mục và giáo dân bị lưu đày, bị tù ngục hay bị hành quyết, nhiều nhà thờ bị đốt phá, nhiều người phải chạy lên rừng ẩn trốn… Các linh mục phải ẩn náu trong những nơi hẻo lánh, chờ đến đêm khuya mới lén lút cử hành thánh lễ hoặc ban các bí tích cho giáo dân.
Trong những hoàn cảnh khó khăn cực kì đến thế, số người tin Chúa ngày càng đông, nhiều xứ đạo mọc lên và phát triển… và đặc biệt là có rất nhiều tín hữu sẵn sàng chết vì đạo Chúa để làm chứng cho Tin Mừng. Lịch sử Giáo hội Việt Nam ghi nhận có trên 100.000 tín hữu công giáo Việt Nam đã hi sinh chịu chết vì đạo thánh Chúa trong suốt 270 năm bắt bớ triệt phá đạo, trong số đó có 117 vị được Giáo hội chính thức tuyên thánh vào năm 1988.
Nhờ đâu lại có kết quả lạ lùng đến thế?
Hoàn toàn do ơn Chúa. "Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người có đạo".
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ."
Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.
Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
"Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan "Hùm Xám Nam Định", tức quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng hung dữ cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn