Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy". Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM:
Những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh không những chỉ nhằm mục đích chứng minh Chúa đã sống lại thật hoặc để củng cố đức tin của các môn đệ, mà còn để chuẩn bị họ một nội lực ĐỦ MẠNH để thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Người, tức là rao giảng Đức Ki-tô và Tin Mừng cứu độ. Làm sao ta có thể làm công việc rao giảng này nếu ta chưa thực sự biết và yêu mến Người, cũng như chưa hiểu rõ giáo lý của Người? Chúa Giêsu Phục Sinh đã chuẩn bị tất cả điều đó. Ta có thể thấy điều đó qua những phản ứng của các môn đệ đối với cuộc hiện ra của Chúa và những lời chỉ bảo cuối cùng của Người đã cho ta một cái nhìn thật đầy đủ về việc chuẩn bị cho sứ vụ làm chứng nhân. Chúa Giêsu Phục Sinh đã như một vị bác sĩ chữa lành những vết thương mang tính con người của họ. “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: ‘Bình an cho anh em’
Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ một cách bất ngờ. Điều này đã khiến các ông “kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”! Điều đáng ghi nhớ nhất ở đây là Chúa Giêsu không hề trách mắng các môn đệ yếu lòng tin. Người hiểu rõ tâm trạng của môn đệ, nên không nặng lời trách mắng, trái lại, Người xử sự như một vị bác sĩ tâm lý hết lòng yêu mến chăm sóc bệnh nhân (một đặc nét của Tin Mừng Lu-ca). Người tìm cách chữa lành những bệnh nhân đang mắc bệnh “hoảng hốt, ngờ vực trong lòng”.
Trước hết, Chúa Giê-su kéo môn đệ trở về với thực tại. Thực tại là sự hiện diện của chính Người, sự hiện diện bằng xương bằng thịt mà họ đã cảm nghiệm trước khi Người chịu chết. Người đưa họ ra khỏi cơn hoảng hốt và ảo tưởng bằng cách bảo họ sử dụng giác quan của họ. Họ hãy nhìn tay chân Người mang dấu đinh của cực hình thập giá. Họ hãy lấy tay rờ xem những dấu đinh biểu tượng cho tình yêu sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu.
Tới đây, tình trạng các bệnh nhân đã khá hơn, nhưng họ “vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng”. Để chữa dứt chứng bệnh, Chúa Giê-su đã sử dụng một phương thuốc tuyệt vời: đưa họ về với thực tại mối quan hệ thân thương với Người, tức là việc họ được cùng ăn uống với Người. Trước đây, trên đường truyền giáo, thầy trò đã cùng chịu cực khổ, chia sẻ miếng ăn thức uống, hoặc những lần họ được no nê nhờ phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều. Nhất là trong bữa Tiệc Ly, Chúa đã bẻ bánh thiết lập Bí Tích Thánh Thể, dùng việc ăn uống để thầy trò được kết hiệp với nhau cách nhiệm mầu. Vậy họ đưa cho Người một miếng cá nướng và Người ăn trước mặt họ để nhắc nhở họ về mối quan hệ với Người. Những bữa ăn với Chúa Phục Sinh đã ghi ấn tượng thật sâu xa trong tâm hồn Phê-rô, đến nỗi mãi sau này ông vẫn còn nhớ và dùng làm chứng cớ trong bài giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô để quả quyết Chúa sống lại (Cv 10:41).
Có lẽ bài học nhận biết Chúa Phục Sinh của các môn đệ phản ảnh tâm trạng của nhiều người môn đệ mọi thời. Những triệu chứng “kinh hồn bạt vía, hoảng hốt, ngờ vực chưa tin và ngỡ ngàng” đều có nơi những ai gặp gỡ Chúa Giê-su. Những triệu chứng ấy nói lên mức độ hiểu biết, yêu mến và quyết tâm theo Chúa nơi ta còn quá yếu ớt. Do đó, muốn dấn thân thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa Phục Sinh, ta cần phải để cho Người chữa trị cho tuyệt căn. Ta chỉ cần sử dụng những phương thuốc Người đã đề nghị: chiêm ngưỡng Người, “nếm thử và nhìn xem cho biết Người tốt lành dường nào”, nhất là qua bữa tiệc Thánh Thể sống mối quan hệ mật thiết với Người.
Lạy Chúa! Chúng con là những bệnh nhân của sự nghi ngờ yếu lòng tin. Xin Chúa đến cứu chữa những mu muội ngờ vực trong con, giúp chúng con siêng năng đọc và suy gẫm lời Chúa cùng tin những lời kinh thánh đã nói về Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn