- Đọc Ga 6,35-51. Đức Giêsu nói "Chính tôi là bánh..." ở những câu nào? Hai lối nói: “bánh hằng sống” (Ga 6,51) và “bánh trường sinh” (Ga 6,35.48) có nghĩa khác nhau không? Đọc thêm Ga 4,10; 6,57; 8,12.
- Điểm mới mẻ của Ga 6,51 là gì? Câu này có ám chỉ về cái chết của Chúa không? Cái chết này đem lại điều gì, cho ai?
- Tìm những động từ “tin” và “đến với” trong Ga 6,35-47? Tìm những động từ “ăn” và cụm từ “ăn thịt và uống máu” trong Ga 6,52-58? Từ đó bạn có thể rút ra những thái độ nào đối với Đức Giêsu?
- Đọc Ga 6, 51-52. Cho biết phản ứng của "người Do-thái" đối với câu nói của Đức Giêsu? Họ hiểu câu Ga 6,51 như thế nào?
- Đọc Ga 6,53-54. Qua hai câu này Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì?
- Đọc Ga 6,56. Trong câu này, Đức Giêsu muốn cho thấy nét đặc biệt gì của bí tích Thánh Thể? Cụm từ “ở lại trong” nhắc ta nhớ đến câu nào khác của Gioan? Đọc Ga 14,10; 15,4-10.
- Đọc Ga 6,57. Trong câu này, Đức Giêsu muốn cho thấy nét đặc biệt gì của bí tích Thánh Thể?
- Ga 6,51-56 nói nhiều đến “ăn thịt và uống máu” của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể có gắn liền với cái chết trên thập giá của Đức Giêsu không? Đọc Ga 1,14; 19,34.
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn có coi việc rước lễ là một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu không? Bạn có thấy mình được
thêm sức mạnh để chu toàn bổn phận hàng ngày, nhờ rước Chúa thường xuyên không? Bạn có
dành giờ để tâm sự với Chúa sau khi rước lễ không?
PHẦN TRẢ LỜI
- Đức Giêsu nói câu “Chính tôi là bánh…” nhiều lần. “Chính tôi là bánh đem lại sự sống” (Ga 6,35.48), “Chính tôi là bánh xuống từ trời” (Ga 6,41). “Chính tôi là bánh hằng sống từ trời xuống” (Ga 6,51). Bánh hằng sống là bánh có sự sống nơi chính mình (the living bread). Còn “bánh đem lại sự sống” là bánh trường sinh, bánh ban sự sống cho nhân loại (the bread of life). Ở Ga 4,10 ta gặp lối nói “nước hằng sống” (living water) giống với lối nói “bánh hằng sống”. Ở Ga 8,12 có lối nói “ánh sáng đem lại sự sống” giống với lối nói “bánh đem lại sự sống”. Còn ở Ga 6,57 ta gặp lối nói đặc biệt: “Chúa Cha hằng sống” (living Father), lối nói này chỉ xuất hiện một lần ở đây trong Tân ước.
- Điểm mới mẻ của Ga 6,51 là lời khẳng định của Đức Giêsu: “Bánh tôi sẽ ban là thịt của tôi cho sự sống của thế gian”. Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói rằng Bánh mà Ngài sẽ ban là thịt của Ngài. Câu này nói một cách rõ ràng hơn các câu trước về bí tích Thánh Thể. Khi cuốn Tin mừng này được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, bí tích Thánh Thể đã được cử hành trong cộng đoàn tín hữu từ lâu rồi. Trong bí tích này, khi cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu được lặp lại, bánh đã trở nên thịt (hay “mình”) của Ngài.
- Câu này cũng ám chỉ đến cái chết của Đức Giêsu, bởi lẽ qua cái chết, Đức Giêsu cho đi chính thịt của Ngài, nghĩa là cho đi chính con người của Ngài. Cái chết này sẽ đem lại sự sống đời đời cho cả thế gian đang cần ơn cứu độ. Phép lạ manna hay bánh hóa nhiểu chỉ đem lại sự sống thân xác cho một số người, trong khoảng thời gian ngắn.
- Trong Ga 6,35-47, có hai cụm từ xuất hiện nhiều lần: ‘tin vào tôi’ (Ga 6,35.40; xem thêm Ga 6,36.47), và ‘đến với tôi’ (Ga 6,35.37.44.45). Trong Ga 6,51-58, ta không thấy hai cụm từ ấy nữa, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều lần động từ ‘ăn’ (Ga 6, 51.52.57.58), và cụm từ ‘ăn thịt tôi và uống máu tôi’ (Ga 6,53.54.56). Như thế, để có được sự sống đời đời, chúng ta cần đến với Đức Giêsu, tin vào Ngài và lãnh nhận thịt máu Ngài trong bí tích Thánh Thể.
- Trước đây người Do-thái đã xầm xì khi nghe Đức Giêsu nói mình là bánh xuống từ trời (Ga 6,41). Bây giờ họ tranh cãi sôi nổi với nhau, khi nghe Đức Giêsu nói về việc Ngài sẽ ban tặng thịt của mình cho họ ăn (Ga 6,51). Hẳn người Do-thái đã hiểu theo câu này nghĩa đen, nên họ có phản ứng không tin (Ga 6,52). Họ cũng có phản ứng hiểu lầm giống như những người khác trước đây (Ga 2,19-20; 3,3-4; 4,14-15.31-34). Thật ra câu nói trên phải được hiểu trong bối cảnh của bí tích Thánh Thể, vì ở đây bánh thực sự trở nên thịt của Đức Giêsu (Ga 6,55).
- Qua Ga 6,53-54, Đức Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc “ăn thịt và uống máu” của Ngài trong bí tích Thánh Thể. Khi lãnh nhận thịt và máu Chúa, chúng ta mới có được sự sống nơi mình (c.53): sự sống đời đời bắt đầu ngay ở đời này, và sự sống lại ở đời sau (Ga 6,54).
- Ga 6,56 cho thấy việc lãnh nhận thịt và máu Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đem lại một sự kết hiệp hai chiều: Chúa Giêsu ở lại trong tôi và tôi ở lại trong Ngài. Cụm từ ‘ở lại trong’ là cụm từ đặc biệt trong Tin mừng Gioan. Nó diễn tả việc Chúa Giêsu gắn bó thiết thân, bền vững và sâu xa với các môn đệ, như cây nho và cành nho ở lại trong nhau (Ga 15,4-10). Tin mừng này cũng nói Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga 14,10), và Thần khí ở lại trên Đức Giêsu (Ga 1,32-33).
- Gioan 6,57 cho ta thấy một hiệu quả đặc biệt của việc ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, đó là chúng ta được sống “nhờ” (dia) Chúa Giêsu, sống bằng sự sống của Ngài. Mà Chúa Giêsu lại sống “nhờ” Chúa Cha, nên có thể nói, chúng ta được sống nhờ chính sự sống thần linh của Chúa Cha.
- Chúng ta tin Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã trở thành thịt” (Ga 1,18), nghĩa đã làm người có xác thịt như ta. Trên thập giá, khi người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, “lập tức máu và nước chảy ra” (Ga 19,34). Đức Giêsu thật sự có máu, có thịt như ta. Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu đã ban cho chúng ta thịt và máu của Ngài. Khi tham dự bí tích Thánh Thể, chúng ta được ăn thịt và uống máu Chúa dưới hình bánh rượu, qua đó chúng ta tham dự vào cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu, để được sống nhờ Ngài ngay bây giờ và được sống lại trong ngày sau hết (Ga 6,54.57). MANNA về lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời…..
MANNA EM THẬT CÓ PHÚC – Chúa Nhật 20 TN Năm B: Lễ Đức Mẹ lên trời
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Bấy giờ bà Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Ðấng Toàn năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời.
Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Suy niệm:
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác,
phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria trong đời thường.
Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn 100 cây số,
đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên đang mang thai.
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui.
Maria là người cất tiếng chào trước.
Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (c. 44)
và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc. 42-45).
Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc. 46-47).
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần.
Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1, 35).
Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1, 41).
Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của cô em.
Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt vời (c. 42).
Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45).
Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được muôn hồng ân (c. 48).
Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại, phục vụ:
đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày xưa,
và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời.
Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi với con người.
Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ của nhân loại.
Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng ta nhiều điều.
Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và nỗi khốn cùng của nó.
Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề của trái đất,
vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao.
Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân xác.
Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và được tôn vinh với ta.
Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ.
“Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm”.
Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền thờ.
Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập tự giá.
Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ sống bên Ngài.
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26).
Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu bằng cả cuộc đời.
Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác.
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân loại.
Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến.
Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được hưởng.
Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh,
nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu.
Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững trên trời,
và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con tạ ơn Chúa Giêsu
đã ban cho chúng con một người mẹ
như quà tặng vô giá lúc Người sắp lìa đời.
Mẹ được chọn làm thân mẫu của Chúa
và được ban đầy ân sủng siêu phàm,
khiến muôn thế hệ phải ngợi khen chúc tụng.
Nhưng Mẹ cũng là tỳ nữ mọn hèn
luôn mau mắn thi hành ý định của Thiên Chúa,
dù Mẹ chẳng hiểu hết được mầu nhiệm cao sâu.
Chúng con tưởng Mẹ sẽ đi trên con đường đầy hoa,
nhưng thật ra Mẹ đã đi con đường của Chúa,
con đường gập ghềnh và trắc trở,
với lưỡi gươm sắc đâm thấu tâm hồn.
Trong đời Mẹ có bao tiếng xin vâng trên môi,
từ tiếng xin vâng đầu tiên đến tiếng xin vâng trên núi Sọ.
Những tiếng xin vâng này
kết hợp với tiếng xin vâng của Con Mẹ
để Người đem ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria,
là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con.
Mẹ đã sống trọn phận người như chúng con,
và đã chiến thắng sau khi kết thúc cuộc đời trần thế.
Mẹ hiểu chúng con cần lời chuyển cầu của Mẹ biết bao
đang khi phải chiến đấu giữa trần gian đầy sóng gió.
Ước gì chúng con cũng có phúc vì đã tin như Mẹ,
có phúc vì đã làm cho Con của Mẹ được sinh ra,
và lớn lên trong thế giới hôm nay. Amen.