Các bài Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh

Thứ năm - 06/04/2023 09:22
Các bài Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh
Ga 20, 1 – 9


 
NGÔI MỘ TRỐNG
Chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
 
I. NGỮ CẢNH
Chúng ta đã sang phần ii của TM Ga, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính: (1) Đức Giêsu cáo biệt khi đến Giờ (tại Bữa tối cuối cùng) (Ga 13–17); (2) Giờ của cuộc Khổ Nạn-Chết-Sống lại của Đức Giêsu (18,1–20,29).
 
Phần ii có cấu trúc như sau:
  • A (18,1-14+) : Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Giuđa kẻ phản bội và nhóm đi bắt Người.
  • B (18,12-27) : Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn đệ.
  • C (18,28–19,16b) : Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do-thái, do Philatô thực hiện.
  • C’(19,16c-42) : Vua dân Do-thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Gôngôtha.
  • B’(20,1-18) : Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại mồ trống và Đức Giêsu hiện ra với Maria Mácđala.
  • A’(20,19-29) : Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma người không tin.
 
II. BỐ CỤC
Bản văn Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:
  1. Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (20,1-2);
  2. Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10).
 
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- lúc tảng sáng (1): Prôi, dịch sát là “lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Rôma, từ 3-6 giờ sáng (người Rôma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).
- Maria Mácđala (1): TM Ga chỉ nêu tên một mình bà Maria Mácđala; Mt nêu tên hai bà; Mc nêu ra ba bà; còn Lc (24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”. Có lẽ truyền thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám đi một mình trong lúc trời còn nhá nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại chính câu nói của bà: “Và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Lc 8,2 đã đặt bà Maria Mácđala vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ, bà chỉ được nhắc đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Mácđala, ở về phía bờ biển tây bắc của Hồ Galilê, cách Caphácnaum khoảng bảy dặm về phía tây nam.
 
- đi đến  mộ (1): Ga không xác định lý do. McLc cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu. Mt chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ, có lẽ vì Mt đã kể là mộ có lính canh nên các bà không thể vào mộ được.
 
- bà … thấy (1): TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theôrein, theasthai, horan [idein]. Các chuyên viên cho rằng “thấy” ở đây là blepein, cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. ch. 9; 21,9), và như thế blepein không có một ý nghĩa đặc biệt. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: 5,19 (Đức Giêsu thấy Chúa Cha) và 9,39 (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ với hai nghĩa).
Theôrein có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thì giờ hơn blepein, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Tuy nhiên cũng có ngoại lệ: 6,40; 17,24; còn 14,17 có lẽ là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.
 
Horan (idein) có nghĩa là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (20,8.25). Câu 16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy (= theôrein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi horan được dùng theo nghĩa thể lý: 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9 (horan = theôrein).
 
Theasthai được một vài nhà chú giải dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc đang xảy ra (x. 1,14; 4,35) và nếu dựa vào 1 Ga 1,1, dường như horan là cấp thấp hơn theasthai (“điều chúng tôi đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]”). Tuy nhiên, ở 1,38  và 6,5, theasthai dường như chỉ có nghĩa là nhìn thấy thể lý; ở 1,32 (= 1,34); 11,45, theasthai lại được dùng đồng nghĩa với horan. Bởi vì theasthai không được dùng nhiều và phong phú như horan, chúng tôi tạm xếp theasthai vào cấp thứ ba.
 
- tảng đá (1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như tác giả Lc, tác giả Ga không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66) hay niêm phong ngôi mộ bằng một tảng đá.
 
- đã cất khỏi mồ (1 - NTT): Các TMNL nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc 24,2 dùng động từ apokyliô, “lăn đi xa”, ở thái bị động); Ga thì nói “đã được cất (êrmenos] khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Paléttina cho thấy là có những ngôi mộ nằm ngang và cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có thể có một gian ngoài; gian trong mới dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ bán cung (như một cái kệ) cách mặt đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ rộng và theo cách cuối cùng.
 
- Bà liền chạy về (2): Maria Mácđala đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra là thi hài không còn ở đó nữa, hay là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong? Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo bản văn TM IV thì phải hiểu theo giả thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến c. 11, bà mới “cúi xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho rằng lúc đầu c. 11 đi theo c. 1.
 
- gặp ông Simôn Phêrô (2): Người ta thường cho rằng Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng Phêrô không chạy trốn với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do-thái thẩm vấn (Ga 18,27).
 
- người môn đệ Đức Giêsu thương mến (2): Dung mạo bí ẩn “người môn đệ Chúa thương mến” được đưa vào đột ngột ở Ga 13,23, lúc mà truyện sắp lên tới cao đỉnh, lúc mà Đức Giêsu quy tụ các môn đệ thân tín lại để chia sẻ một bữa ăn tạ từ và ban những giáo huấn cuối cùng (x. Ga ch. 13–17). Điều này khiến ta hiểu rằng người môn đệ Chúa thương mến là một dung mạo được cộng đoàn tác giả quen biết. Là người không được nêu tên và cứ tiếp tục ở trong tình trạng vô danh cho đến hết Tin Mừng, người môn đệ này được sống một tình thân mật với Đức Giêsu đặc biệt hơn cả nhóm: ông được mô tả là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương, người nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu (en tô kolpô tou Iêsou, Ga 13,23; x. 13,25; 21,20 [epi to stêthos]). Kiểu thân mật này gợi nhớ tình thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: Đức Giêsu, được Chúa Cha yêu thương (Ga 15,9; 18,26), là người Con Một, ở trong lòng Chúa Cha (ho hœn eis ton kolpon tou patros, Ga 1,18). Đến Ga 18,15, thì xuất hiện “một môn đệ khác”, có lẽ cũng vẫn là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đã được Simôn Phêrô làm hiệu hỏi Đức Giêsu trong bữa tối cuối cùng (Ga 13,24). Tại chương 19, người môn đệ ấy xuất hiện bên cạnh thân mẫu Đức Giêsu (Ga 19,26). Đến chương 20, tác giả đồng hóa “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (20,2) với “người môn đệ kia” (20,4.8). Simôn Phêrô và “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” lại xuất hiện bên nhau trong chương cuối cùng (21,7.20).
 
Người môn đệ này là ai? Tác giả Ga đã nhấn mạnh 5 lần rằng nguồn của ngài chính là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20). Các học giả đã nghĩ tới nhiều nhân vật: Gioan, con ông Dêbêđê; Ladarô; Gioan Máccô (x. Cv 12,12); Trưởng lão Gioan; một dung mạo tượng trưng. Cho đến nay giả thuyết mạnh nhất (R.E. Brown) vẫn là coi người môn đệ ấy là Gioan, con ông Dêbêđê và là tác giả TM IV (trừ hoặc kể cả chương 21)[1]. J.A. Grassi[2] đã viết một quyển sách nhỏ để chứng minh: (1) Dựa vào TM Ga, người môn đệ này là một người có thật, nhưng không phải là Gioan, con ông Dêbêđê và một trong Nhóm Mười Hai. (2) Đây là một dung mạo vừa có những nét giống với Giacóp vừa có những điểm giống với Giuse con yêu quý của Giacóp. (3) Đây là người môn đệ trẻ vô danh đã cùng với Anrê đến với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. (4) Người môn đệ này xuất thân từ miền Giuđê, có lẽ thuộc một gia đình tư tế ở Giêrusalem. (5) Người môn đệ này là “em bé” đã tặng năm chiếc bánh và hai con cá. (6) Người môn đệ này có vị trí ưu tiên trong bữa tối cuối cùng, biết trước bí mật thâm sâu của Đức Giêsu về chuyện bị phản bội và phải chết, vì ông là người kế thừa thầm kín có sứ mạng giúp cho thế gian hiểu thật sâu cuộc sống và đặc biệt cái chết của Người. (7) Bản văn trọng yếu là vào lúc đứng dưới chân thập giá, người môn đệ này chứng kiến và hiểu ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu. Dù thế nào, có thể nói người môn đệ này là người thừa kế đích thực của Đức Giêsu. Chương 21 này khiến ta nhớ lại những bản văn có nhân vật này, và nhắc lại các điểm này: người nào phải kế tục Đức Giêsu thì phải được chọn phù hợp với ý muốn của Đức Giêsu và tương ứng với sự chọn lựa bằng tình yêu. Đến cuối chương 21 này, ta thấy rõ ơn gọi của hai người môn đệ: người môn đệ Chúa thương mến có ơn gọi làm chứng, còn Phêrô có ơn gọi điều khiển cộng đoàn hoặc ơn gọi chăn dắt đoàn chiên.
 
Các học giả chưa đạt tới tiếng nói chung về nhân vật này. Dù sao, chúng tôi nghĩ kiểu gọi “người môn đệ Chúa thương mến” hẳn không phải là kiểu gọi của chính người môn đệ ấy, nhưng của các môn đệ của người ấy[3]. Đến đây cứ cho đi là một người có thật, nhưng khi không có tên như thế, người môn đệ ấy đã trở thành biểu tượng cho mọi môn đệ của Đức Giêsu. Điều này được diễn tả rõ ràng trong hoạt cảnh trên Đồi Sọ, khi Đức Giêsu ký thác “người môn đệ mình thương mến” cho thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Đặc biệt được đặt tương phản trong tình thế đầy kịch tính với Phêrô, người môn đệ Chúa thương mến tượng trưng đức tin tinh trong của cộng đoàn tác giả, còn Phêrô của TM IV tượng trưng các môn đệ của Đức Giêsu trong tình trạng hàm hồ về tư cách môn đệ, một đức tin còn pha trộn nơi các Họi Thánh thời các tông đồ. 
 
- đem Chúa (2): Có lẽ bây giờ viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, tác giả đã sử dụng danh hiệu “Chúa” (kyrios) này như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.
 
- và chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Mácđala ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói là “chúng tôi”. Người ta giải thích nhiều cách: (1) Có các bà khác, nhưng tác giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Mácđala thôi; (2) Từ “chúng tôi” là để dung hòa TM IV với các TMNL (Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao TM IV khác các TMNL ở rất nhiều chi tiết, mà lại ráng dung hòa tại một chi tiết nhỏ, tinh tế như thế? (3) Bultmann và vài tác giả khác nghĩ rằng từ “chúng tôi” chỉ là một cách diễn tả Sê-mít để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (c. 13).
Có lẽ cách giải thích đầu tiên là tốt nhất và tự nhiên nhất.  
 
- chạy mau hơn (4): Cha Lagrange cho rằng vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng vì ông chưa lập gia đình! Có tác giả cho rằng vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp lý là cho rằng vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.
 
- nhưng không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng “người môn đệ Chúa thương mến” không vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức khi chạm vào một xác chết. Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong TM. Có lẽ cách giải thích tốt nhất là nói rằng tác giả đã ghi lại một chi tiết không đáng kể như thế, là vì đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, ngài lại nhớ lại cả một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi lại trong TM của ngài để gợi lên trung thực điều ngài đã sống (Guillemette).  
 
- Ông cúi xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là blepœ.
 
- Phêrô theo sau (6): Phêrô bước theo (akolouthôn) người môn đệ Chúa thương mến như là môn đệ? Động từ “bước theo” rất hiếm khi được dùng theo nghĩa này; thông thường người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn đặt đối lập Phêrô với người môn đệ Chúa thương mến thì nhắm vào cách sử dụng trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.
 
- Ông vào … thấy (6): Simôn Phêrô “thấy”: động từ được dùng là theoreô, tương tự  người môn đệ Chúa thương mến.
- khăn che đầu (7): Soudarion là một cái khăn giống như nhưng có lẽ to hơn cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.
 
- các băng vải (7): Khác với Ladarô (11,43), khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra.
 
- Ông đã thấy và đã tin (8): “Thấy” ở đây là horan, một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp “thấy thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepô, c. 5), người môn đệ khác đã đạt tới cấp “thấy” cao nhất (horan) bằng đức tin. Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã thấy (eiden, aor của horan) = đã tin (episteusen, aor của pisteuô).
 
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Các môn đệ biết rằng Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của  Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
* Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (1-2)
Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa-bát (Ga 19,31 và các bản văn song song), còn các phụ nữ chỉ đi ra một sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và các bản văn song song).
 
Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người. 
 
Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.
 
Vì hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (1,42) và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).
 
* Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)
Tin tức Maria Mácđala đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang một thi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.
 
Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu của TM IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”) và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan] Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.
 
Dù sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người. “Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.
 
] Kết luận
Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.
 
Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
 
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.
 
2. Tác giả TM IV viết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ.
 
3. Các tông đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
 
4. Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy. 
5. Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (? 345-407), có đoạn: “Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…
 
Isaia đã tiên báo điều này khi nói: « Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón ngươi vào” (14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng..., vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1 Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.
 
 
Lm. Vũ Phan Long, ofm
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CHÚA NHẬT PHỤC SINH - A
"Chúa đã sống lại thật rồi" (Lc 24,34)
 
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
"Chúa đã sống lại !" Thánh Phêrô, Thánh Gioan, Thánh Phaolô và tất cả các tông đồ khác đều hô vang Tin Mừng ấy. Tiếng hô ấy vẫn còn vang mãi trong Giáo Hội sơ khai và các thế hệ kitô hữu, để biểu lộ niềm tin của Giáo Hội và kêu mời mọi người hy vọng. Hy vọng, bởi vì cho dù mọi vẻ bề ngoài có thể ngược hẳn lại, cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, cuộc đời vẫn có hồi kết thúc, nhưng đau khổ không phải là số phận, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng.
Nếu Ðức Giêsu đã trở thành Ðấng hằng sống, và nếu chúng ta đã được Ngài ban cho sự sống đời đời, thì tại sao chúng ta còn hoang mang, sợ sệt, chán nản trước những gian khổ đời này ?
 
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta vững tin vào việc Chúa sống lại, và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trong thế giới hôm nay.
 
II. GỢI Ý SÁM HỐI
  • Thực ra chúng ta chưa thực sự tin tưởng vào việc sống lại, cho nên chúng ta sống như mục đích của đời mình chỉ là dưới thế này.
  • Chúng ta thường chán nản ngã lòng khi gặp khó khăn, thất bại.
  • Chúng ta chỉ biết sống cho mình chứ không quan tâm làm chứng về Chúa cho người khác.
 
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Cv 10,34.37-43
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma.
 
Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Ðức Giêsu : a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu ; b/ Cái chết của Ngài ; c/ Việc Ngài sống lại ; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ.
 
Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu.
 
2. Ðáp ca: Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
 
3. Bài đọc II: Cl 3,1-4
Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Ðức Giêsu sống lại :
  • Kitô hữu là người đã chết với Ðức Giêsu và sống lại với Ngài.
  • Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới.
  • Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới.
 
4. Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9
Những chi tiết quan trọng nhất của bài tường thuật này là ngôi mồ trống và 3 phản ứng trước hiện tượng ấy.
  • Maria Mađalêna nghĩ rằng "Người ta đã lấy mất Chúa rồi". Bà hoang mang chạy đi báo tin "chẳng lành" ấy cho các tông đồ khác. Phải chờ đến khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với bà thì bà mới tin Ngài sống lại.
  • Phêrô nhìn thấy những hiện tượng nhưng chưa có phản ứng nào cả.
  • "Người môn đệ kia" khi thấy thì nhớ lại những lời Ðức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay.
 
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Tin là thế nào?
Ðức tin của các tín hữu thường chỉ có một chiều kích, đó là chiều kích của trí óc : tin có Thiên Chúa ; tin rằng Ngài đã tạo dựng mọi sự, Ngài biết mọi sự và điều hành mọi sự...
Ðức tin của các tín hữu thường hướng tới đời sau: tin rằng mình sẽ được ở với Thiên Chúa sau khi từ giã cõi đời này.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay buộc ta phải điều chỉnh lại đức tin ấy: phải có thêm chiều kích hiện sinh nữa: Không chỉ tin bằng trí óc mà còn bằng cả cuộc sống. Không chỉ nhắm tới cuộc sống mai sau, mà phải nghĩ tới cuộc sống hiện tại. Thánh Phaolô dạy: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Ðức Kitô".
 
2. Làm chứng là thế nào?
Chỉ có các tông đồ là những "chứng nhân" đúng nghĩa : các ngài đã cùng sống với Ðức Giêsu, đã thấy Ngài chết và thấy Ngài sống lại. Việc làm chứng của các ngài dựa trên điều các ngài đã thấy.
 
Nhưng lời chứng xuất phát từ cảm nghiệm cũng có giá trị, nhiều khi lại còn có sức thuyết phục hơn. Chúng ta có thể làm chứng cho Ðức Giêsu phục sinh theo cách thứ hai này: sống làm sao cho người ta biết chúng ta đang sống một cuộc sống mới, chúng ta hạnh phúc, chúng ta tự do, chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới đó, và trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng chúng ta cũng tràn trề hy vọng.
3. Tâm thức kiêu căng của kẻ chiến thắng
Nhiều người trách rằng những người công giáo có tâm thức kiêu căng vì nghĩ rằng mình là kẻ chiến thắng, kẻ mạnh, kẻ giỏi hơn người... Tiếng pháp là "triomphalisme". Thực ra, chúng ta có tâm thức đó không ? Và xét cho cùng, nên có tâm thức đó không ?
 
Chúng ta xác tín rằng chúng ta có một chỗ dựa vô cùng vững chắc là Ðức Giêsu phục sinh, và cũng xác tín rằng nếu có Ngài phù trợ thì chúng ta sẽ vượt thắng tất cả. Những câu đáp ca hôm nay trích từ Thánh vịnh 117 tuyên bố niềm xác tín đó: "Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa cao cả vô song. Tôi không phải chết nhưng còn sống mãi, để tường thuật những kỳ công Chúa làm".
 
Thế nhưng, chúng ta không nên kiêu căng, cũng không nên khinh chê những người khác không có được niềm xác tín của chúng ta. Ðúng hơn, chúng ta cần làm chứng cho họ và chia sẻ với họ niềm xác tín ấy, một niềm xác tín vẫn giúp con người lạc quan hy vọng cho dù đang ở giữa bao khổ đau, thất bại, bệnh tật và thậm chí sắp chết.
 
4. Mộ mở toang
Gioan "cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó... Ông đã thấy và đã tin.
 
Nhưng ông thấy gì ? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì ? Một hố sâu thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
 
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Ðức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không ? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
 
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chấm hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
 
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
 
Ngôi mộ mở lòng mở trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Ðức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, "Le ciel sur terre", được trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 122-123).
 
5. "Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết ?"
Một vài tuần trước lễ Phục sinh, người chồng đã chết vì một tai nạn đột ngột : đang khi ông đốt các nhánh cây vụn trong khu vườn của gia đình, ông đã sơ ý để lửa bắt vào mình.
Tai nạn đã làm cho bà vợ trở nên như người mất trí, một đàng vì nó đột ngột quá, đàng khác vì nó xảy ra tại chính khu vườn của gia đình. Bà không dám bước chân ra vườn. Thậm chí không dám nhìn về hướng đó nữa.
 
Rồi tới ngày lễ Phục sinh. Hai người hàng xóm đến thăm bà và rủ bà đi ra vườn. Mới nghe tới đó, bà co rúm người lại. Nhưng các bà hàng xóm tin rằng việc này sẽ có ích cho bà nên cứ khuyến khích. Thế là cả 3 ra vườn, đến chính nơi xảy ra tại nạn. Ngài vợ muốn quay lưng bỏ vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy, một lời trong Tin Mừng bỗng loé lên trong đầu bà : "Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết ? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi." Bà nghĩ lời đó nói về chính người chồng của bà. Thế là nỗi buồn sầu bấy lâu nay chắp cánh bay mất. Bà tìm lại được niềm vui.(Flor Mc Carthy).
 
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã cho Ðức Kitô sống lại và bừng sáng trên thế giới như mặt trời chính ngọ. Ước gì ánh sáng phục sinh của Ngài luôn hướng dẫn đời sống đức tin của người kitô hữu. Trong niềm hân hoan mừng Con Chúa đã sống lại khải hoàn, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
 
  1. Từ hai mươi thế kỷ nay / Hội Thánh không ngừng công bố một Tin Mừng duy nhất cho muôn dân / đó là Tin Mừng Con Chúa đã phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lời rao giảng của Hội Thánh / được nhiều người thành tâm đón nhận.
  2. Chỉ một mình Ðức Kitô phục sinh có quyền năng đổi mới / và hòa giải mọi tâm hồn / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương xót nhân loại đang đau khổ vì hận thù chia rẽ / và canh tân lòng trí con người hôm nay.
  3. Nhờ Ðức Kitô phục sinh / Chúa mở lối cho nhân loại vào cõi sống muôn đời / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / chỉ vẽ cho các kitô hữu biết cách xây dựng quê hương trần thế / làm sao cho những cố gắng đó / cũng giúp họ đạt tới quê trời vĩnh phúc.
  4. Chính Ðức Kitô phục sinh đã tập họp chúng ta trong thánh lễ này / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / lấy lời chân lý mà cải hóa / và giúp cộng đoàn giáo xứ chúng ta sống một đời thánh thiện / để mọi việc chúng ta làm đều đẹp lòng Chúa.
 
CT : Lạy Chúa, Ðức Giêsu Kitô Con Chúa đã trải qua bao đau thương và chịu khổ hình Thập giá rồi mới bước vào vinh quang thiên quốc. Xin cho tất cả chúng con được chia sẻ đau thương, được chết với Người, để cùng được phục sinh vinh hiển với Người là Ðấng hằng sống và hiển trị...
 
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
 
CHÚA NHẬT PHỤC SINH - A
Lm. Ignatiô Hồ Thông
 
Vào ngày lễ  Phục Sinh nầy, phụng vụ  Lời Chúa đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến các bản văn tiên báo nữa. Khởi đi từ lễ Phục Sinh đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ như truyền thống xa xưa lên đến thể kỷ thứ tư.
Cv 10: 34, 37-43
Bài  Đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ mà chúng ta đọc hôm nay.
Cl 3: 1-4
Bài  Đọc II, trích từ thư  thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm vượt qua, bằng cách mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.
Ga 20: 1-9
Cuối cùng, Tin Mừng Gioan thường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, bước khởi đầu niềm tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.       
 
BÀI  ĐỌC I:  Cv 10: 34, 37-43
Sách Công vụ được trình bày như phần tiếp theo Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: một Thê-ô-phi-lô nào đó, nhân vật vô danh.
 
1. Mối bận tâm của thánh Lu-ca:
Thánh Lu-ca bận tâm đến tính lịch sử: nghiên cứu cho đến ngọn nguồn những gì mình viết ra. Trong Tin Mừng của mình, thánh ký quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su. Trong sách Công Vụ của mình, tác giả phác họa lại những bước khởi đầu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai, dung mạo của thánh Phao-lô.
 
2. Cuộc thăm viếng mục vụ  của thánh Phê-rô:
Nhiều lần thánh ký nhấn mạnh các tông đồ làm chứng về biến cố Phục Sinh. Lời chứng của thánh Phê-rô tại tư gia của ông Co-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, cung cấp một trong những vị ví dụ như vậy. Đó là lý do chọn bài đọc nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh.
 
Vị  lãnh tụ Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ.” Sau cuộc bách hại đã giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu non trẻ vào năm 36 (vào thời gian đó, thánh Tê-pha-nô tử vì đạo), thời kỳ yên tĩnh trở lại. Thánh Phê-rô lợi dụng cơ hội nầy để thăm viếng những Giáo Đoàn vừa mới được thiết lập. Sách Công vụ nói với chúng ta: “Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy mà vị Tông Đồ đến miền duyên hãi, miền mà trước đây thầy phó tế Phi-lip-phê đã đem Tin Mừng đến.
 
3. Cuộc trở lại của viên bách quản ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô có mặt ở Gia-phô, hiện nay là Jaffa, một viên bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê Duyên Hải (cách Gia-phô khoảng 50 cây số), sai người mời thánh nhân đến tư gia của ông.
 
Viên bách quản Co-nê-li-ô là một cảm tình viên Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa”, họ là lương dân, nhưng tôn kính Thiên Chúa Ít-ra-en, tuy nhiên, họ không tuân giữ luật Mô-sê và không chịu phép cắt bì. Ông là một người đạo hạnh và rộng tay bố thí như sách Công vụ nói với chúng ta.
 
Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp tin mừng đến cho một lương dân và toàn thể thân bằng quyến thuộc của ông, một kinh nghiệm làm đảo lộn quan niệm trước đây của thánh nhân: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiện vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.
 
4. Diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có cùng những điểm nhấn với những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào lúc đó thánh nhân minh chứng cho những người Do thái rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vào lúc này, ngỏ lời với cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến phẩm chất nhân chứng của mình: thánh nhân và các Tông Đồ khác đã chứng kiến những việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, nhất là, biến cố Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô là một trong những chứng nhân Thiên Chúa đã chọn từ trước để sống trong mối thân tình với Đức Kitô: “cùng ăn cùng uống với Ngài.” Đấng Phục Sinh đã trao cho họ một sứ mạng, đó là làm chứng rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Hướng đến những người sắp gia nhập Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thánh Phê-rô tinh tế thêm vào ngay sau đó rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng từ bi, nhân hậu và hay tha thứ. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng các ngôn sứ đều đã loan báo như vậy: tha thứ tội lỗi cho những ai tin vào Ngài.
 
Giáo Hội xây dựng niềm tin của mình vào biến cố Phục Sinh trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy có tính quyết định đến độ không giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh thành một tín điều. Tính minh nhiên của sự kiện đòi buộc. Nền tảng thật vững chắc: những người “đã thấy”“đã sống” với Đức Kitô Phục Sinh làm chứng.
 
BÀI  ĐỌC II:   Cl 3: 1-4
Thánh Phao-lô viết thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê  này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
 
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Kitô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Kitô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
 
2. Người Ki-tô hữu:
Như  trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2: 6).
 
Vì  thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Kitô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi; đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Kitô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Kitô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
 
 
TIN MỪNG   Ga 20: 1-9
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào sự Phục Sinh của Đức Kitô dựa trên hai kinh nghiệm; có thể nói là chúng hình thành nên “hai giai đoạn”.
 
Trước tiên, việc khám phá ngôi mộ trống là mặc khải gây choáng váng đầu tiên, phải nói là kinh nghiệm về sự “trống rỗng” ; kinh nghiệm này đã mở đôi mắt của họ và khai lòng mở trí họ để hiểu Kinh Thánh.
 
Tiếp  đó, ngay từ cùng ngày hôm đó, “những lần hiện ra” của Đức Giê-su mang đến bằng chứng khả giác về một con người thực sự đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào thấu hiểu mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những dấu đinh cuộc tử nạn của Ngài. Vì thế, không cốt là một bóng ma, không là một hình hài giả tạo. Hai kinh nghiệm tăng cường cho nhau, bổ túc cho nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tuyệt đối của mình cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
 
1. Ngày thứ nhất trong tuần:  
Từ  cuộc khám phá ngôi mộ trống, Tin Mừng thứ  tư tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động, chính xác, câu chuyện của nhân chứng nhãn tiền. Và  như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa thâm sâu.
 
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, vì thế, ngày thứ nhất trong tuần đã bắt đầu, ngày thứ nhất nầy sẽ trở thành ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa,” nói chính xác vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình của Ngài (Lc 8: 1-3); cùng với Đức Trinh Nữ, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng chỉ cho thấy rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
 
2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan chỉ nêu tên một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la, tuy nhiên, tự văn bản, xem ra còn có các bà khác cùng đồng hành với người phụ nữ nầy, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói : “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” . Quả thật, thánh Mát-thêu kể ra hai người : bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1), còn thánh Mác-cô kể ra ba : bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), theo thánh Lu-ca, còn có nhiều hơn nữa (Lc 24 : 1) ; nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trưng dẫn.
 
Tại sao bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên duy nhất? Chắc chắn vì trong số các bà trung thành nầy, kỷ niệm của người phụ nữ nầy đặc biệt nhất (thánh Gioan viết Tin Mừng của mình với một hoài niệm nào đó) ; và vì chính bà là người được ân ban đón nhận lần hiện ra đầu tiên trong số các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng kể ra.
 
3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan :
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho hai ông Phê-rô và  Gioan, hai ông có thể cư ngụ dưới cùng một mái nhà. Cả hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3 : 1-11 ; 4 : 1-22). Họ đã là hai nhân chứng về cuộc Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp họ hiểu biến cố mà họ trải qua vào sáng nay.
 
Thánh Phê-rô thì lớn tuổi hơn, vì thế ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ đầu tiên ; thánh nhân nhận ra ở nơi thánh Phê-rô địa vị cao hơn. Quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ sẽ được khẳng định chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên bờ hồ Ti-bê-ri-a (Phê-rô, con có yêu mến Thầy ?), nhưng được hàm chứa rồi ở nơi việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho thánh Phê-rô: « Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy… ».
 
Tin Mừng thứ tư làm rõ ra rằng dù các người phụ nữ, đặc biệt bà Ma-ri-a Mác-đa-la, đến mộ trước tiên, các Tông Đồ là những người đầu tiên đi vào trong ngôi mộ và chứng kiến ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về việc  Đức Giê-su phục sinh. Điều này rất quan trọng, vì theo luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Một ngày kia, Đức Giê-su đã nhắc lại luật này cho những người Pha-ri-sêu : « Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật » (Ga 8 : 17). Ngoài ra, theo Luật, lời chứng của các người phụ nữ thì không có giá trị.
 
4. Khăn và vải liệm được xếp  đặt ngăn nắp:
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, cảnh tượng băng vải còn ở đó và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi hổn độn rồi. Thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
 
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến ông La-za-rô, thi thể được sống lại ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn? Ông La-za-rô được sống lại để rồi một ngày kia lại chết. Đức Giê-su thì tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của cái chết nầy, nghĩa là tử thần không còn có quyền gì trên Ngài nữa. Chắc chắn hai vị tông đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức mà thánh Gioan «đã thấy và đã tin» : rõ ràng dụng ngữ này diễn đạt quá trình từ «thấy» đến sự gắn bó trọn vẹn với Đấng Phục Sinh.
 
Ánh sáng bừng lên ở nơi người môn đệ nầy trước ngôi mộ trống và vải liệm được xếp gọn gàng ngăn nắp. Nếu niềm tin của ông đã có thể bị lung lay ít nhiều bởi những biến cố đau thương, thì tình yêu của ông đã không hề suy giảm, như ông đã bày tỏ cho đến mức theo bước chân Thầy cho đến nhũng giây phút cuối cùng của Thầy bên cạnh thập giá. Cường độ của tình yêu dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc. Chính cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó ông có thể nhận ra Thầy mình trên bờ hồ trong sương sớm trong khi những người khác không nhận ra (Ga 21 : 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên ông tin tối đa. Độ nhạy bén của con tim giúp ông hiểu biết con người và sự vật.
 
5. Theo Kinh Thánh:
Nếu  đức tin có thể trước hết đến từ  độ nhạy bén của con tim: «quen hơi bén tiếng», tuy nhiên nó cần được tâm trí soi sáng. «Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết» ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích sự Phục Sinh của Đức Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2 : 17, 22 ; 12 : 16) ; hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (Ga 14: 26; Lc 24: 45).
 
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các  ông…Người ta có thể phỏng đoán rằng họ  nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2: 24-31).
 
Quả  thật, chúng ta đọc trong Tv 16 những hàng nầy: “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”. Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng  Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.
 
Như  vậy, các ông rời bỏ ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều mà hai ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo về Thầy mình.
 
 
Lm. Ignatiô Hồ Thông
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ÁNH SÁNG PHỤC SINH
UBKT. HĐGM VIỆTNAM
 
Năm 1939, nhà văn Ngô Tất Tố đã viết một tác phẩm rất nổi tiếng mang tựa đề “Tắt Đèn”. Tác phẩm ấy đã diễn tả những mảnh đời tăm tối dưới sự bóc lột áp bức của bọn cường hào ác bá. Nhân vật chính trong truyện là chị Dậu. Gia đình chị rất nghèo nhưng phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng. Chị đành bán đứa con gái 7 tuổi và một ổ chó lấy 2 đồng bạc đóng thuế thân cho chồng. Chưa hết khổ, chị còn phải chạy vạy tiền nong để đóng thuế đinh cho cả người em chồng đã chết ! Để có tiền đóng thuế, chị đi ở vú cho gia đình 1 viên quan già. Ông quan già này toan hãm hại đời chị, chị đã cương quyết chống lại để bảo toàn một cuộc đời trong sạch …

Tác phẩm “Tắt Đèn” là một bức tranh ảm đạm, phản ánh một cuộc đời đã tắt hết niềm tin, niềm hy vọng và niềm vui. Không phải ngày xưa mới có cảnh “tắt đèn”. Ngày nay, cũng còn có những tâm hồn đang tắt lịm trong nỗi tuyệt vọng và sầu khổ. Chúa Kitô Phục Sinh đã thắp lên ánh sáng rạng ngời, xua tan bóng tối đang bủa vây tâm hồn mọi người.

Trong đêm vọng Phục Sinh hôm nay, chúng ta đã làm một việc có tính cách tượng trưng : tắt hết đèn trong nhà thờ để thắp lên ngọn nến Phục Sinh. Việc đó cho thấy Chúa Kitô là ánh sáng đã chiếu soi vào những tâm hồn u tối và làm bừng lên niềm tin, niềm hy vọng và niềm vui đã lụi tàn.
 
Ánh sáng niềm tin.
Khi Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, tâm hồn các môn đệ rơi vào một trạng thái bi thảm : sợ hãi, buồn rầu, thất vọng. Không những thế, tâm hồn các ngài còn bị bao phủ bởi bóng tối của sự hoài nghi. Các ngài đánh mất niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Còn đâu lời tuyên tín của Phêrô làm cho họ được phấn khởi. Còn đâu những lời Thầy giảng dạy, những phép lạ Thầy làm, những thành công Thầy trò gặt hái được trên bước đường loan báo Tin Mừng.
Niềm tin như tia sáng vừa bừng lên đã vụt tắt. Tất cả chỉ còn là nỗi thất vọng ê chề ! Tất cả đã chấm hết khi tảng đá được lăn vào che lấp cửa mồ của Chúa.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại vinh quang. Chúa phục sinh đã khiến cuộc đời các môn đệ thay đổi hoàn toàn !
Khi tảng đá che lấp cửa mồ của Chúa được lăn ra, tảng đá nghi nan che khuất tâm hồn các ngài cũng được mở tung. Ánh sáng niềm tin đã bừng lên trong lòng các ngài. Ánh sáng đó như rạng đông của một ngày mới đang ló dạng.
 
Ánh sáng niềm hy vọng.
Trước khi Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ luôn bám víu vào một tương lai đầy ảo tưởng. Niềm hy vọng của các ngài hết sức trần tục. Các ngài nuôi mãi niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang trần thế cùng với Thầy mình.
Khi Chúa chết, các ngài vỡ mộng ! Các ngài rơi vào một tâm trạng đầy bi quan; tất cả mọi công khó giờ đây chỉ còn 2 bàn tay trắng. Các ngài co cụm lại với nhau trong một căn phòng đóng kín, tâm hồn bị “gặm nhấm” với nỗi buồn khôn tả !

Bỗng nhiên, các người phụ nữ chạy về báo tin : Chúa sống lại ! Niềm hy vọng lại bừng lên tươi sáng. Các ngài không mất tất cả, nhưng lại được tất cả. Niềm hy vọng của các ngài được lọc qua ánh sáng Phục Sinh để trở thành trong sáng và tinh ròng hơn. Niềm hy vọng ấy không còn hão huyền và phàm tục nữa. Ánh sáng Phục Sinh đã mở ra cho các ngài một chân trời mới, làm cho các ngài trưởng thành hơn. Từ nay, các ngài sống bằng niềm hy vọng sáng ngời và chân thực. Niềm hy vọng ấy không bao giờ tàn phai nữa.
 
Ánh sáng niềm vui.
Khi Chúa bị bắt và bị giết, một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn họ trở thành những nấm mồ đau thương. Các môn đệ không muốn bước ra khỏi cửa vì buồn sầu chán nản, nhưng cũng còn vì sợ người Do Thái. Chỉ có những người phụ nữ ra thăm mồ Chúa từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần. Họ ra mồ Chúa để khóc thương, để than van và vật vã. Những giọt nước mắt của phụ nữ nhỏ xuống theo từng bước chân u buồn nặng nề trên đường đi.

Nhưng đến nơi, họ thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ. Các bà được thiên thần báo tin : Chúa sống lại rồi ! Niềm vui chợt vỡ oà trong tâm hồn họ. Niềm vui như chắp cánh cho trái tim sầu khổ. Niềm vui nở hoa trong tang tóc ly biệt. Chúa Phục Sinh đã hiện ra trước mắt các bà và trao cho các bà sứ mạng đi loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ.

Những giọt lệ đã biến thành nụ cười, niềm vui đã nâng bước chân hân hoan của các bà trên con đường sứ mạng. Niềm vui tràn ra từ cõi lòng họ, khiến họ vội vàng ra đi loan báo Tin Mừng.

Niềm vui nối tiếp niềm vui. Niềm vui lan tới tâm hồn các môn đệ để các ngài cũng lại lên đường loan báo tin vui cho người khác. Niềm vui như những tia sáng vẫn tiếp tục chiếu rọi khắp nơi cho đến tận cùng thế giới.
 
 
 
Ánh sáng cho đời.
Đêm nay, ánh sáng Phục Sinh đang bừng lên trong lòng chúng ta. Chúa sống lại để phục sinh tâm hồn mọi người. Có những tâm hồn đã chết nay sống lại. Ánh sáng phục sinh đã nâng dậy những mảnh đời đang chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng. Ánh sáng phục sinh cũng đang làm hồi sinh những tâm hồn héo úa và đau khổ. Tất cả là ơn Phục Sinh được Chúa đem đến cho chúng ta.
Đêm nay, Chúa cũng muốn chúng ta giữ mãi ngọn nến phục sinh được sáng mãi, để chúng ta cũng biết gieo vãi ánh sáng niềm tin, hy vọng và niềm vui đến cho mọi người. Có những người đang kéo lê cuộc “sống mòn” trong tăm tối của cuộc đời đói nghèo. Có những người đang bị giam hãm trong u mê thất học. Có những người đang tàn lụi trong bóng đêm của bệnh hoạn tật nguyền. Tất cả đang đợi chờ ánh sáng phục sinh.

Tác giả Trần Viết Sử viết một truyện ngắn mang tựa đề: “Lung Linh Ánh Nến”, trong đó, kể câu chuyện về người tử tù. Người tử tù ấy chỉ còn 15 ngày nữa sẽ bị đem đi xử bắn. Anh ta nài nỉ người quản giáo mua giùm 10 cây nến. Anh ta dùng 10 cây nến đó để “luyện mắt” bằng cách ngồi nhìn chăm chú vào ngọn nến sáng nhiều giờ liền.
Sau khi anh ta bị xử bắn. Một vị bác sĩ đã kể cho người quản giáo biết : anh ta hiến đôi mắt của mình để lấy một khoản tiền cho người mẹ đang đau nặng. Anh ta muốn “luyện mắt” bằng những ngọn nến sáng, giữ cho mắt được tốt để trao cho bệnh viện mà anh ta hiến tặng.
Chúng ta không biết “luyện mắt” bằng những ngọn nến có làm cho mắt sáng hơn không. Nhưng có một điều chắc chắn: nếu chúng ta luôn nhìn vào Ngọn Nến Phục Sinh của Đức Kitô, tâm hồn chúng ta luôn sáng mãi niềm tin, niềm hy vọng và niềm vui.
UBKT. HĐGM VIỆTNAM
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc  đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu : đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang.  Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại. Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người.
 
I. ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI ?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:
          Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)
          Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).
          Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).
          Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.
          Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).
          Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).
          Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).
          Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)
          Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).
          Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).
          Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).
          Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).
Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).
Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.
 
Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói: ”Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiều anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách. 
 
Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng  như văn hào Corneille đã nói :”Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan.  Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời.  Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.
 
II. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.
 
1. Suy nghĩ của người đời.
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giơ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại.  Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục :
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh.(Tục ngữ)
 
Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia.  Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật: ”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy“ mà hành động thì mới mong thành đạt.
 
Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi. (Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)
 
Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: ”Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.
 
Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: ”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người..., anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi : Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự  cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác.  Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ.  Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân  được đến đài vinh quang? (Sđd, trang 27)
 
Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói:”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.
 
Ông Henry Ford cũng khuyên: ”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.
 
2.  Chuyển bại thành thắng.
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng  chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại ; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người : đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.
 
 Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.
 
Có hai loại thất bại:
  • Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).
  • Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).
         
Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận...
 
Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp: ”Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
 
  • Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
  • Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
 
Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiếnlùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.
 
Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: “Một ngàn việc tiến, Chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ”. (Henri Frédéric AMIEL)
 
III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.
 
1. Chúa đã sống lại thật.
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem  trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.
 
Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ù ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.
 
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sông lại là vấn đề đức tin : phúc cho ai không thấy mà tin.
 
2. Phải sống theo niềm tin ấy.
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: ”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy ! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem !
 
a. Có những nghịch lý phải chấp nhận.
Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu : Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Người đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta.  Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.
 
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: ”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được  nhiều hạt khác” (Ga 12,24).  Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.
 
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và được” hay giữa “bị và “được. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay ! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”. Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).
 
Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
 
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: ”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
 
Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu  là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
 
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu :”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25).  Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.
 
Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây: Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:
  • Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ :
  • Nhưng ta có phải là gió đâu?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
  • Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được  tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân  một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
  • Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh :
  • Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích :
  • Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:
  • Vẫn một dòng suối như cũ ư ?
Giọng nói giải thích :
  • Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn.(R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)
 
Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây  là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.
 
b. Chiến đấu không lùi bước.
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: ”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: ”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).
 
Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
 
Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.
 
Truyện: Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: ”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.
 
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: ”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.
 
Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:
“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy ? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình ; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.
 
lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI
Sự phục sinh của Chúa Giê-su đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương…
Lm. Ignatio Trần Ngà
 
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da; chịu vác thánh giá nặng nề lảo đảo tiến lên đồi sọ và phải ngã xuống nhiều lần; rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giê-su đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ.
Cuối cùng, tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại; đóng lại lịch sử một đời người với bao việc diệu kỳ; chôn vùi một Nhân Vật tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Ít-ra-en.
 
Thế là hết! Còn đâu nữa ngày nắng đẹp khi Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng! Còn đâu nữa buổi chiều vàng trong hoang địa khi Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn! Còn đâu nữa bóng dáng Đấng quyền năng dùng lời đầy uy lực truyền cho sóng yên biển lặng! Còn đâu nữa Con Người kỳ diệu đã làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe! Còn đâu nữa Vị Ngôn Sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những lời vàng đem lại phấn khởi cho biết bao tâm hồn!…
 
Đức Giê-su đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
 
Thế rồi điều kỳ diệu bất ngờ xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Ma-đa-lê-na đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, Chị hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa, Chị hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các vị nầy ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh.
 
Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giê-su đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giê-su nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
 
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Ngài là sự sống lại và là sự sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ." (Gioan 11,25)
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn; như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ huỷ diệt sự sống. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
 
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giê-su đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giê-su phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giê-su đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
 
Xin mọi người hãy cùng cất cao lời ca tụng Đấng phục sinh và hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
 
 
Lm. Ignatio Trần Ngà
 
 
 
 
 
 
PHỤC SINH: THỰC TẾ HAY HUYỀN THOẠI
Lm. Lâm Thy, DVD
 
Cho đến tận ngày nay biến cố Phục Sinh vẫn còn là một huyền thoại đối với con người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền). Không chỉ ở bên ngoài Ki-tô giáo, mà ngay trong Giáo Hội cũng vẫn còn không ít Tôma-thời-đại cứ đòi được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn” Đức Giê-su mới chịu tin. Chuyện đó cũng dễ hiểu, vì bản chất con người là thế. Nói về một chuyện cách xa cả 20 thế kỷ, mà cứ đòi được trực diện quan sát thì quả là không tưởng! Đến ngay như người đương thời, nhất là những kẻ ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với Đức Ki-tô, được “thực mục sở thị” mà khi biến cố xảy ra cũng không thiếu những suy nghĩ trái chiều.
 
Xin thử đặt mình vào thời điểm cách đây hơn 2000 năm, với một nhãn quan của một trong những người-còn-hoài-nghi, để nhìn vào hiện tượng “Giê-su Na-da-ret” qua biến cố Phục Sinh. Trước hết, ngay ở chính quê hương Na-da-ret, chàng thanh niên Giê-su là con ông thợ mộc Giu-se khiêm tốn và bà Maria nội trợ hiền lành, cũng không có tiếng tăm gì, chẳng mấy ai biết đến, thậm chí sau một thời gian dài đi xa trở về, chẳng được ai đón tiếp, đến nỗi chàng phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi” (Mt 13, 57), rồi còn nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20).
 
Những lời phát biểu của chàng, nếu không là những câu chuyện dụ ngôn khó hiểu, thì cũng chỉ là những lời tréo cẳng ngỗng, nếu không muốn nói là nghịch thường, phi lý. Chẳng hạn như: “Hãy để người chết chôn người chết” (Lc 9, 60); “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.” (Mt 10, 34-35); “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. (Mt 5, 44); ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39). Đó là chưa kể – nói theo đám kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu – Người còn nói “phạm thượng” nữa (Lc 5, 21), dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22, 70; Ga 13, 34), rồi còn tự coi mình vừa là con lại vừa là Chúa của vua Đa-vit (Lc 20, 41-44 ). Chưa hết, về giao du, sinh hoạt, Người chỉ chuyên “ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi” (Mt 9, 10-11).
 
Nếu không được ở liền bên Đức Giê-su hàng ngày, mà chỉ được nghe thuật lại những lời nói và hành động như nêu trên, chắc chắn sẽ cho Người chỉ là một chàng trai tự phụ, đại ngôn vậy thôi. Đám kinh sư và luật sĩ Pha-ri-sêu chống đối Người cũng là vì thế. Khoan thử nói đến những người ở bên ngoài Giáo Hội, mà hãy nói thẳng vào những người đã tin và đi theo Đức Giê-su như tìm đến một cứu cánh cho cuộc đời. Họ đi theo Đức Giê-su vì tin rằng mình sẽ trở nên những kẻ “lưới người như lưới cá”. Rồi thì ngày ngày được nghe lời dạy bảo, được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ, mà vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì coi Thầy mình đúng là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; khi thì lại coi Thầy là ma, là bị quỷ ám – Mc 3, 22 ; Lc 24, 37-39 ; Ga 8, 52 ; 10, 20…). Theo Thầy ròng rã 3 năm liền mà đến giờ phút quyết định, thì bỏ mặc Thầy mướt mồ hôi máu khi cầu nguyện trên núi Cây Dầu, còn mình thì thản nhiên ngủ khì (Mt 26, 36-45). Đến khi Thầy bị bắt giải đi thì chẳng thấy ai đi theo, ngoài một Phê-rô lảng vảng bên ngoài nhà Cai-pha, để rồi thì chối phăng Thầy 3 lần liền trong một đêm chỉ vì một đứa tớ gái vặn hỏi.
Trên đường lên Núi Sọ, cũng chẳng thấy môn đệ nào đi gần bên (để được như Si-mon – một dân quê xa lạ – vác đỡ thập giá, hoặc như một Vê-rô-ni-ca trao khăn cho Người lau mặt đầy máu), nếu có đi theo cũng chỉ ở xa xa hoặc lẫn trong đám người hiếu kỳ. Cho đến khi Đức Giê-su chết trên thập giá và được mai táng, thì hầu như chẳng còn một ai tin rằng Thầy mình sẽ sống lại. Ngay đến sáng ngày thứ ba, các phụ nữ – sau khi được chứng kiến Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra – đến báo tin cho các môn đệ (trong đó có Phê-rô) mà các ngài vẫn còn chưa tin hẳn và một lần nữa lại tưởng Người là ma! (“Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin… Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” – Lc 24, 11…37). Thậm chí cho đến lúc trắng đen rõ ràng rồi, vậy mà vẫn còn một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).
 
Tuy nhiên, chính cái mâu thuẫn nội tại trong con người các môn đệ lại là một bằng chứng sống động nhất cho biến cố Phục Sinh. Thật thế, khi người ta mang một tâm trạng hoài nghi thì khó lòng làm cho người ta tin tưởng được. Chẳng thế mà thế giới đã có cả một chủ thuyết hoài nghi hiện diện (không tin vào bất cứ sự gì, nên sống hôm nay không cần biết đến ngày mai). Nhưng nếu đến một lúc nào đó, được “nghe”, được “thấy tận mắt”" (“thực mục sở thị”), được “chiêm ngưỡng”, tay được “chạm đến” (như trường hợp Gio-an thánh sử – 1Ga 1, 1), tâm trạng hoài nghi thực sự được gỡ bỏ; thì lúc đó niềm tin của họ sẽ kiên định không gì lay chuyển nổi. Cho nên có thể nói: Nếu không vì cái tâm trạng hoài nghi đã từng dằn vặt tâm trí trước đó, thì khi được gột rửa (được thanh tẩy “trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11), niềm tin của các môn đệ tiên khởi không thể kiên định được đến độ dám đem cả sinh mạng của mình ra để làm chứng cho mầu nhiệm Phục Sinh. Nói cách khác, đức tin có vượt qua được thử thách mới trở nên kiên định (Gc 1, 3), vàng được thử lửa (1Pr 1, 7) mới thật sự là vàng ròng.
 
Đến ngay như Đức Giê-su Thiên Chúa nếu không trải qua cuộc Khổ Nạn (với những vết đòn roi trên thân xác, mão gai trên đầu, dấu đinh ở chân tay và nhất là vết thương ở cạnh sườn bị lưỡi đòng tội ác đâm thấu con tim) thì sự Phục Sinh của Người cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Vì thế, vấn đề đặt ra với người Ki-tô hữu ngày hôm nay khi bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua, không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Giê-su Ki-tô và ăn mừng Lễ Phục Sinh đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của Người, mà còn là làm sao vượt qua được chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến về được quê Trời vui hưởng hạnh phúc đời đời. Một cách cụ thể, chúng ta chỉ có thể đạt được ước vọng đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức Ki-tô” (thử thách, thử lửa). Và chỉ có “cùng chết với Đức Ki-tô” thì mới được “cùng sống lại với Người”. Cụ thể hơn, cần phải vượt qua được bản chất “sợ chết” cố hữu của con người. Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì tại sao loài người lại không sẵn sàng chết vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng được thực sự “sống lại” trong Nước Trời vinh quang?
 
Mỗi năm chỉ có một Mùa Chay 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua như đã dẫn ở đầu bài viết, tôi cứ muốn nghĩ thêm rằng tôi phải thực hành (không chỉ là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt qua được Mùa Chay của bản thân tôi, của cuộc đời tôi. Và nhất là làm thế nào để mỗi năm thêm một lần tôi ghi dấu được cuộc vượt qua bằng một cái mốc thời gian trong cuộc đời. Tôi phải sống làm sao cho đúng với ý nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”. Cuộc sống của tôi không chỉ là mỗi năm một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua, mà phải là thực hành liên lỉ cuộc “bách-niên-vượt-qua”, cho tới ngày tới được cùng đích của cuộc đời. Ở đó, chính Người-đã-chết-cho-tôi, đã Vượt-Qua-sự-chết-vì-tôi, sẽ dang rộng vòng tay đón nhận tôi để tôi được cùng-sống-lại-với-Người.
Có thể ai cũng đã quen với lối diễn tả sống đức tin vào sự Phục Sinh là chết đi con người cũ của mình để sống đời sống mới trong Thánh Thần. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nói thì thật dễ, và chính vì tưởng dễ như vậy nên mới vênh vang tự đắc; nhưng làm thế nào để có thể “chết đi con người cũ của mình” mới là thiên nan vạn nan. Và vì thế, để thực hiện sống niềm tin Phục Sinh cách thực tế và sống động, chỉ có một bí quyết, đó là: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 6-8).
 
Vâng, người Ki-tô hữu “ăn mừng đại lễ Phục Sinh” cũng có nghĩa là sống mầu nhiệm Phục Sinh, sống với “lòng tinh tuyền và chân thật”. Cuộc đời Ki-tô hữu là một tiến trình “loại bỏ men cũ để trở thành bột mới”. Cuộc loại bỏ và trở thành ấy diễn ra trong mọi quyết tâm và nỗ lực là “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” (“Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” – Pl 3, 10-11).
 
Tóm lại, để sống trọn hảo Mùa Chay thánh 2014, người Ki-tô hữu hãy mau mắn đáp lại mong ước của vị Cha Chung (ĐTC Phan-xi-cô): “Anh chị em thân mến, ước gì Mùa chay này thấy được toàn thể Giáo Hội sẵn sàng và mau mắn làm chứng cho những người đang sống trong tình trạng lầm than vật chất, luân lý và tinh thần: làm chứng về sứ điệp Tin Mừng, được tóm tắt trong việc loan báo tình thương của Chúa Cha từ bi, sẵn sàng ôm lấy mỗi người trong Chúa Ki-tô. Chúng ta có thể thi hành điều ấy theo mức độ chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo và làm cho chúng ta được giàu sang bằng cái nghèo của Ngài. Mùa Chay là mùa thích hợp để cởi bỏ, làm cho chúng ta tự hỏi đâu là điều chúng ta có thể chịu thiếu để giúp đỡ và làm cho người khác trở nên phong phú nhờ cái nghèo của chúng ta.”
 
Quả thật “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 4-5). Và chỉ đến khi đó, tôi mới thật sự vui mừng mà hoà chung tiếng hoan ca với mọi người: Chúa đã sống lại hiển vinh! Alleluia! Alleluia! Ôi, lạy Chúa! Con đã tự ru mình vào những cám dỗ ngọt ngào của ba thù, đã tự kết án mình, đã chết vì chính tội lỗi của con. Xin cho con vượt qua được mọi nỗi thống khổ trần ai, vượt qua được chính mình, để được cùng sống lại với Ngài trong ngày sau hết. Amen. Alleluia! Alleluia!
 
Lm. Lâm Thy, DVD
 
CHÚA NHẬT PHỤC SINH – A –
Lm Kevin O’Shea, CSsR
 
Chúa Sống Lại, Ngài lại đã sống trong thinh lặng vào chiều lễ Vọng, lúc không gian và thời gian đọng-lắng tình im-ắng. Chúa sống lại với vũ trụ/địa cầu để Ngài đi vào lòng người có tình thân trầm lắng. Thuở đầu đời, người người cũng đều cảm nghiệm một lặng thinh như tình im lắng ngày Chúa tạo khởi-đầu không-gian và thời-gian.     
 
Tình lặng thinh Chúa Phục Sinh, nay thành bầu-khí giữ gìn một Khởi-đầu như Tin Mừng thánh Máccô từng ghi chép. Thánh Máccô có ghi ở đầu sách: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên-Chúa, Đấng được xức dầu”. Khởi đầu, là khởi phát ngay từ đầu, khi chưa có gì trong vũ trụ, như sách Khởi Nguyên từng ghi lại. Khởi đầu, với Tin Mừng thánh Mác-cô, là sự mới-mẻ tuyệt-vời nguồn-gốc vũ-trụ và con nguời. Và lặng thinh như thế, không để chuẩn bị cho Khởi-đầu mà để giữ-gìn Khởi đầu im ắng, lặng thinh, rất Sống Lại.
 
Khởi đầu Sống Lại, là ý-nghĩa của sự sống ta từng biết đến. Khởi đầu, bao gồm và diễn-tả nhiều ý-nghĩa của sự chết, như ta tưởng. Là, thứ trật-tự khác hẳn sự sống và nỗi chết. Khởi đầu, luôn có khác biệt, mà ngôn-ngữ ra câm-nín khi đối-đầu sự thể khác biệt ấy. Bằng vào ngôn ngữ và nhờ có ngôn-ngữ, ta vẫn gọi đó là: Phục Sinh - Khởi Đầu.
 
Tin Mừng thánh Gioan, đồ đệ thánh Gioan Tẩy Giả chào mừng Chúa bằng câu: “Quid Qaeritis?” tức là: “Ngài tìm gì thế?” Và cuối Tin Mừng, lại có đoạn kể Maria Magđala đến mộ-phần của Chúa, cũng được hỏi: “Chị tìm ai thế?” Câu hỏi lần này là: tìm ai chứ không phải tìm gì? Bên tiếng La-tinh, là: “Quem Qaeritis?” tức: không phải thứ gì vẫn có ở chốn lặng thinh khởi đầu ấy, mà là Đấng vượt cả sự sống lẫn nỗi chết.
 
Thời Trung Cổ, lễ Vọng Phục Sinh cũng thấy các Dòng khổ tu đã lại hát mẩu đối-thoại giữa người phụ nữ đến mộ phần trống vắng để tìm Chúa, lại đã gặp thần-sứ Chúa ở ngay đó. Và, câu đáp-ca thời đó như sau:
  • Này hỡi, những kẻ theo chân Đức Kitô, các người tìm ai?
  • Tìm Giêsu Nadarét, Đấng chịu đóng đinh, nay là Người của Thiên Quốc.
  • Ngài không ở đây! Ngài sống lại như đà báo trước. Hãy đi mà loan báo điều đó. Ngài sống lại và đã ra khỏi mồ.  
 
Ngay sau đó, lại thấy bốn thày Dòng bước lên cung-thánh diễn-trình Phục-sinh qua nghi-thức phụng-vụ. Một thày mặc đồ trắng tiến gần đến mộ phần trống vắng, tay cầm nhành cọ rồi ngồi xuống rất im lặng. Thày là thiên-sứ có mặt ở mộ-trống hôm ấy. Ba thày Dòng kia, lại cũng bước ra tay cầm bình hương, nhang đèn như thể kiếm tìm thứ gì đó. Các thày Dòng lại cũng đến gần mộ-phần để xem xét. Khi ấy, thần-sứ Chúa lại hát câu:
  • “Này hỡi, những kẻ bước theo chân Chúa, các người tìm gì ở mộ phần?”
Họ đồng thanh lên tiếng đáp:
  • “Tìm Giêsu Nazarét, Đấng chịu đóng đinh, Đấng bậc ở trời cao!”
Thần-sứ lại cũng đáp-từ bằng câu hát:
  • “Ngài không có đây, Ngài trỗi dậy như đà báo trước. Hãy đi mà kể cho mọi người biết Ngài trỗi dậy từ cõi chết!”
Và khi ấy, toàn cộng-đoàn lại cũng cất lời ca như thần sứ:
  • “Hallêluia! Hôm nay Chúa sống lại Là Sư Tử dũng mãnh, Đức Kitô Con Thiên-Chúa.Hãy cảm tạ Chúa đi và hãy hát lời ca Hallêluia!
Và khi ấy, thần-sứ Chúa lại cũng đáp-từ bằng câu ca:
  • “Hãy đến xem mộ-phần Chúa nằm. Hallêluia! Hallêluia!
 
Tiếp theo đó, thần-sứ Chúa vén màn lên để thấy được mộ-phần Chúa nay trống vắng, không còn thập-giá và Đấng chịu đóng đinh nay có cả khăn liệm xác Ngài để ở đó. Các thày Dòng lượm khăn liệm lên, rồi hất tung khăn về phía trước như để chứng-tỏ cho mọi người thấy: Chúa đã Phục sinh, Ngài không còn liệm bằng tấm trắng quanh mình hoặc thứ nào khác. Các thày Dòng đặt “tấm trắng” lên bàn thờ, rồi bắt đầu hát kinh Te Deum (Tạ Ơn)…
 
Các thày Dòng ở đây lại cũng làm như thế vào phụng-vụ Giáng Sinh, có câu hơi khác:
  • “Các người tìm gì nơi Máng cỏ, này hỡi mục đồng rày cho biết?
  • Tìm Đức Kitô Cứu Thế qua Hài Nhi quấn tấm trắng, như thần-sứ nói.
  • Ngài ở đây với Đức Maria Mẹ Ngài.Hãy đi kể cho mọi người biết Ngài đà Hạ sinh. Ngài đà hạ sinh, một Trẻ Bé cho chúng ta. Người Con đã sinh ra cho chúng ta. Hallêluia!
 
Và cứ thế, triều thần-thánh trên trời dưới đất cứ chúc tụng ngợi khen Ngài trong tiếng hoan ca Phục-sinh-quang-vinh như Ngài đà hạ-sinh cho mọi người, ở đời.  Cảm nghiệm Chúa Phục sinh, không nói gì nhiều và có nói cũng không nhiều như một nhà thơ ngoài đạo vẫn ngâm và vẫn nói. Nhà Đạo chỉ làm thinh không nói nhưng cảm kích. Cảm kích Chúa Phục Sinh quang vinh mọi thời khắc, rất đời thường.
 
Lm Kevin O’Shea, CSsR
 
NẤM MỒ VỠ NÁT
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 
Chiều thứ sáu Chúa tử nạn, màu tang tóc phủ kín khắp không gian. Mây u ám như trùm lên nhân gian lên một nỗi buồn đau sầu tủi. Bóng tối bao phủ trái đất in mờ bóng ba cây thập giá trên nền trời đen thẳm. Theo lối nhìn bình thường ở đời, cái chết của Đức Giêsu là một thất bại lớn. Thập giá là một tủi nhục đến tột cùng.
 
Đức Giêsu đã an nghỉ trong mộ. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Thân xác Người nằm trong mộ như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.
 
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh?
 
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghĩ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.
 
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
 
1. Nấm mồ mở toang
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
 
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu“.
 
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
 
2. Thấy và tin
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
 
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”.  diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
 
3. Ánh sáng bừng tỏa
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
 
Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
 
4. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!
Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
 
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
 
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
 
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
 
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
 
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
 
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
 
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
 
Hãy hát lên khúc hát Allêluia với những nột nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.
 
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 
PHỤC SINH VỚI CHÚA
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
 
Người ta nói “chết là một phần tất yếu của cuộc sống” . Cái chết không loại trừ bất cứ ai. Từ đông sang tây không một ai hiện hữu mà không một lần phải đối diện với cái chết, dù đó có là Tần Thủy Hoàng hay Alexsander Đại đế. Tài giỏi. Quyền uy. Tất cả cũng đi vào dĩ vãng của dòng đời, đôi khi chẳng để lại cho đời một chút luyến tiếc, nhớ thương.
 
Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của đời người. Con người từ khi sinh ra đã tập chia tay. Chia tay từng tuổi đời để tiến đến tuổi trưởng thành hơn hay già đi và chết đi. Chia tay những con người đang sống với chúng ta trong thời gian ngắn, dài hay vĩnh viễn. Và trong số họ cũng có không ít người là thân nhân, là bạn bè của chúng ta.
 
Một điều mà nhân loại vẫn thao thức qua qua mọi thời đại là chết rồi đi đâu? Mặc dù cũng có rất nhiều câu chuyện được kể từ những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết ấy. Cõi chết mà họ bước vào như thế nào? Phong cảnh, sự vật, màu sắc, âm thanh thế nào? Nơi ấy con người ra sao? Sinh vật nào hiện diện và sự sinh hoạt nơi ấy diễn ra có giống với thế giới mà ta gọi là dương thế hay dương gian hay không?
 
Tuy nhiên, cho đến nay, những tường thuật của những người đã chết sống lại kể ra thì chẳng mấy ai chịu tin nhất là trong thời đại văn minh này. Vì nó vẫn vượt lên trên sự suy nghĩ của con người. Có lẽ con người sẽ không bao giờ lý giải được về cái chết. Cái chết vẫn là ẩn số mà các nhà khoa học không bao giờ tìm được câu trả lời thỏa đáng.
 
Người ky-tô hữu chúng ta chỉ biết được cái chết một cách trọn vẹn trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Ky-tô. Sự sống lại của Chúa là lời mạc khải về sự sống đời sau. Cái chết là hậu quả của tội lỗi con người như thánh Phao-lô đã quả quyết: “Vì một người mà tội lỗi đã vào thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết, như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì một người đã phạm tội” (Rm 5, 12). Thế nhưng, sự sống lại trường sinh lại là hồng phúc mà Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết của Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa.
 
Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa không tạo dựng con người để chết mà là để sống, cho dù tội lỗi có phá hủy chương trình của Chúa thì Ngài cũng tìm mọi cách để khôi phục lại sự sống đời đời cho con người. Đức Ky-tô khi xuống thế làm người đã phục hồi lại những gì đã tan vỡ. Chính Ngài đã lãnh lấy sự chết loài người và đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh. Qua sự phục sinh của Ngài đã khai mở một mùa xuân hy vọng cho con người nếu cùng chịu chết với Người thì cũng sẽ được sống lại với Người.
 
Sự phục sinh của Chúa Giê-su được Phúc Âm ghi lại qua những lần Chúa hiện ra với các môn đệ, với những người thân tín của Chúa. Sự Phục sinh của Chúa còn được ghi dấu ấn qua ngôi mộ trống. Một nơi đã chôn cất xác Chúa nhưng ngày thứ ba dù quân lính canh gác, dù tảng đá nặng trĩu vẫn không còn xác Chúa. Nơi nấm mồ ấy không còn là dấu chỉ sự chết mà là dấu chỉ của sự sống. Vì Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ.
 
Sự Phục sinh của Chúa cho chúng ta một niềm vui mừng và hy vọng cho kiếp người chúng ta. Kiếp người chúng ta không có tận cùng. Kiếp người chúng ta sẽ được sống mãi trong sự sung mãn của Chúa. Cái chết chỉ là một chuyển tiếp để được sống mãi bên Chúa nếu chúng ta cùng chết với Đức Ky-tô.
 
Cùng chết với Đức Ky-tô nghĩa là cùng chết đi con người cũ với những tính hư nết xấu để sống lại con người mới là con cái Thiên Chúa. Con người cũng phải chôn đi những tính xác thịt yếu đuối để từ khước những danh lợi thú mau qua. Nhất là con người cũng phải biết chết đi ý riêng của mình để ý Chúa được thục hiện trong cuộc đời chúng ta. Ý Chúa vẫn là tiếng mời gọi làm việc lành tránh điều dữ. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta sống có ích cho tha nhân qua tinh thần bác ái, dấn thân phục vụ.
 
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta luôn biết chết đi con người cũ để được sống lại với Chúa trong vinh quang phục sinh. Xin cho chúng ta đừng vì những đam mê lầm lạc mà đánh mất Nước Trời mai sau. Amen
 
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
 
CHÚA KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT ALLELUIA
Lm. Giuse nguyễn Hưng Lợi, CSsR
 
Alleluia! Alleluia! Chúa đã sống lại rồi! Đó là lời hô vang của các môn đệ xưa. Đó là lời loan báo của những người phụ nữ đầu tiên được gặp Chúa Kitô phục sinh. Tin Mừng phục sinh được vang lên trong Hội Thánh trong khắp buổi đầu. Tin Mừng này còn được vang lên mãi, vang lên mãi để tuyên xưng niềm tin, mời gọi nhân loại, mời gọi con người sống niềm hy vọng. Chúa Kitô đã sống lại, alléluia. Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sống lại như Người.
 
Chúa nhật phục sinh là Chúa nhật vĩ đại cho toàn thể nhân loại, cho những người có đức tin. Bởi vì, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết.Mọi người chúng ta không được chứng kiến sự phục sinh của Chúa như các người phụ nữ, như các môn đệ, nhưng Kinh Thánh, và việc làm chứng của các môn đệ, của những người phụ nữ, của Hội Thánh là lời tuyên xưng đức tin không hề lay chuyển. Thánh Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 1Co 15, 14: ”Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc rao giảng của chúng tôi trở nên vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng nữa“. Ơn huệ Thiên Chúa trao ban, ơn phục sinh Chúa Kitô đem lại củng cố đức tin của chúng ta, đến nỗi mỗi lần tung hô đức tin sau khi truyền phép, chúng ta cùng với Hội Thánh muôn thời tung hô: ”Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, xin cứu độ chúng con“. Chúa Kitô quả thực cứu độ chúng ta và qua cái chết, qua sự sống lại của Ngài, Ngài muốn làm cho mọi người được phục sinh với Ngài: ”Bằng sự chết, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến trong vinh quang“. Chúng ta hy vọng, niềm hy vọng vào sự sống lại sẽ giúp chúng ta vui sống, tin yêu, phó thác vào Chúa. Chính nhờ niềm vọng vào đời sống mai sau, chúng ta sẽ chấp nhận sự sống hiện tại và vững lòng tin yêu sống tình yêu và sự sống của Chúa trong hiện tại: ”Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi“. Chấp nhận sống tình yêu trong hiện tại sẽ mở ra chân trời hy vọng tốt đẹp cho mỗi người có lòng tin vào Chúa.
 
Chúa  nhật phục sinh là lễ của mọi lễ bởi vì Hội Thánh mừng ngày Chúa Kitô khải hoàn. Tin Mừng phục sinh hôm nay vẫn vang lên, vang lên mãi mãi như lời thánh Phaolơ diễn tả trong bài đọc 2 hôm nay:”Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitơ  nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang“(Cl 3, 3-4). Tin Mừng phục sinh luôn thôi thúc, giục giã mọi người lên đường làm chứng cho Chúa Kitô sống lại. Người Kitô hữu luôn sống hy vọng và luôn sống tình yêu hiện tại tràn đầy bởi Đức Kitô đã phục sinh để đem lại tình yêu vô biên cho mọi người: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu“ (Ga 15, 13). Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến, tình yêu nhưng không, tình yêu cao cả. Sống tình yêu như Chúa là sống trong niềm hy vọng phục sinh ”Alléluia” .
 
Chính nhờ sự sống lại của Chúa Kitô mà nhân loại, con người và mọi người sẽ luôn hy vọng, một chân trời mới mở rộng. Bởi vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì đức tin của chúng ta trở nên hão huyền, mơ hồ và vô ích. “Lạy Chúa, bởi thánh giá và sự phục sinh của Người, Người đã giải thoát chúng con; Người là Đấng cứu độ của thế gian“.
 
Alléluia.Alléluia.Alléluia. Chúa Kitô đã sống lại để chúng ta được đi vào sự sống mới và được sống lại với Ngài. Alléluia!. Xin cho chúng con luôn xác tín và tuyên xưng niềm tin Chúa Kitô phục sinh để chúng con không nhát đảm, lùi bước trước những khổ đau, thất vọng ê chề trong cuộc đời. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
  1. Làm sao OBACE tin được Chúa Giêsu phục sinh?
  2. Ngơi mộ trống đã đủ để minh chứng Chúa phục sinh chưa
  3. Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với ai trước nhất?
  4. Ngày thứ nhất trong tuần là ngày nào?
  5. Rabboni là gì? Ai đã nĩi lời đĩ?
 
Lm. Giuse nguyễn Hưng Lợi, CSsR
 
 
NGÔI MỘ TRỐNG
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, CSsR
 
Kinh nghiệm về mầu nhiệm phục sinh gồm hai khía cạnh: tiêu cực và tích cực. Trước tiên, đó là kinh nghiệm về một sự khiếm diện, một sự trống vắng, nhưng là sự trống vắng có giá trị của một dấu chỉ về sự sống. Sau đó sẽ là trải nghiệm chính sự sống đó.
 
Trình thuật về ngôi mộ trống (Ga 20,1-9) hôm nay đề cập đến khía cạnh thứ nhất của kinh nghiệm về mầu nhiệm phục sinh.
(1) Bà Maria Magđala hoang mang
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magđala ra mộ, thì thấy tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ” (20,1).
 
Trong bản văn Hy Lạp, tác giả dùng từ prôi, dịch là sáng sớm, tảng sáng. Prôi là lúc đã có ánh sáng rồi. Xét theo quan điểm thời gian, thật khó dung hoà với ghi nhận “lúc trời còn tối” được tác giả viết ngay sau đó. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của Ga, “bóng tối” có nghĩa là tình trạng tinh thần và tâm linh đối nghịch với sự thật đem lại sự sống (1,5; 3,19; 6,17; 12,35). Vì thế, có lẽ phải hiểu “còn tối” ở đây theo nghĩa ám chỉ tình trạng tinh thần và tâm linh của bà Maria Magđala. Bà đi ra mộ với tâm trạng hoàn toàn bị chi phối bởi cách hiểu sai lạc về cái chết của Đức Giêsu và bà đã không nhận ra rằng ngày mới đã bắt đầu rồi, rằng trời đã sáng rồi. Bà tìm Đức Giêsu nơi cõi của người chết. Bà nghĩ rằng sự chết đã chiến thắng.
 
Khi đến nơi, bà thấy tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ. “Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và gặp người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20,2). Chúng ta có cảm tưởng bà Maria chạy đôn chạy đáo báo động. Tác giả lặp lại giới từ pros, ám chỉ ông Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến đang ở hai nơi chốn khác nhau. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trước, các môn đệ bị phân tán: “Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả” (16,32).
 
Nhưng thay vì thông báo cho các môn đệ Đức Giêsu rằng tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ như bà đã nhìn thấy, thì bà Maria lại nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Việc tảng đá bị đem đi khỏi mộ vốn là dấu hiệu chứng tỏ sự chết không còn chặn lối Đức Giêsu được nữa. Nhưng dấu hiệu ấy đã bị bà Maria hiểu sai hoàn toàn. Dấu hiệu của sự sống bị hiểu thành dấu chỉ của sự mất mát. Đối với bà Maria, Đức Giêsu là Chúa, nhưng là vị Chúa đã bị tước sạch mọi quyền bính, và lúc này bà chẳng biết vị Chúa ấy đang bị đặt ở đâu. Bà vẫn chưa ra khỏi kinh nghiệm đau thương về sự kiện Đức Giêsu bị nộp và bị giết. Bà là hình ảnh của cộng đoàn Hội Thánh đang mất phương hướng vì cái chết thê lương của Đức Giêsu. Bóng tối được nói đến ở câu 20 phản ánh tình cảnh của cộng đoàn đó. Cộng đoàn đang hoang mang tìm kiếm, nhưng là tìm kiếm Đức Chúa đã bị sự chết khuất phục. Đức Chúa của cộng đoàn đã bị “người ta” đặt ở nơi nào họ muốn, và do đó, cộng đoàn các đồ đệ trở nên hoàn toàn bất lực và bất hạnh.
 
(2) Hai môn đệ vội vã ra mộ
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước” (20,3-4). Cả hai môn đệ đều phản ứng giống nhau trước thông tin mà bà Maria cung cấp. Hai ông đều đi ra mộ. Cả hai ông đều gắn bó với Đức Giêsu. Nhưng trên đường đi, đã xảy đến một sự thay đổi quan trọng: người môn đệ Đức Giêsu thương mến chạy mau hơn ông Phêrô và đến mồ trước. Để hiểu rõ hơn chi tiết này, có lẽ chúng ta cần chú ý đến cách tác giả Gioan mô tả về người môn đệ tới mộ trước.
 
Đã hơn một lần người môn đệ này được đề cập đến trong Ga, nhưng lần này, có một sự thay đổi quan trọng. Thay vì gọi ông là “người được Đức Giêsu yêu mến” (Hy Lạp: hon êgapa ho Iêsous) như ở 13,23; 19,26; 21,7.20, thì ở đây tác giả lại gọi ông là “người được Đức Giêsu thương mến” (Hy Lạp: hon ephilei ho Iêsous), một công thức tương tự như cách gọi ông Lazarô: hon phileis (11,3). Vậy ở đây, tác giả có ý nhấn mạnh đến tư cách của người môn đệ này như là người bạn của Đức Giêsu, người thực hiện lệnh truyền của Đức Giêsu (“Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy”: 15,14), tức là người yêu mến anh em mình (“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”: 15,12). Ngoài ra, cách gọi “người môn đệ kia” (c.4b) lại gợi ý cho chúng ta về 18,15-16, nói về người môn đệ đã theo Đức Giêsu vào tận trong dinh thượng tế trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Như vậy, người chạy đến mộ trước chính là người đã từng có kinh nghiệm sâu xa hơn về tình yêu của Đức Giêsu và đã từng chứng tỏ tình yêu đối với Đức Giêsu tận nơi chân thập giá (19,35), chứ không phải là ông Phêrô, người đã từng chối bỏ Thầy.
 
(3) Họ thấy những dấu hiệu của sự sống
Vậy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đến mộ, “ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào” (20,5). “Những băng vải” (othoniois) ở đây được trình bày như là những băng vải hôn lễ. Hạn từ othonion có nghĩa là một dải len, một băng vải trang hoàng trong hôn lễ, khác với những dải vải (keiriais) quấn xác ông Lazarô trong 11,44. Các băng vải được đặt ở chỗ đã đặt xác Đức Giêsu. Các băng vải đó là dấu hiệu của hôn lễ, của sự sống, của sự phong nhiêu. Ngôi mộ trống đã trở thành như một căn phòng hôn lễ, căn phòng của sự sống và sự phong nhiêu.
 
Người môn đệ không vào trong mộ. Ông sẽ vào sau ông Phêrô. Ông nhường cho ông Phêrô được bày tỏ tình yêu mến đối với Thầy trước, bởi lẽ chỉ vài ngày trước đó, ông Phêrô đã chối Thầy trong sân dinh thượng tế còn người môn đệ kia thì vẫn tiếp tục theo Đức Giêsu đến tận chân thập giá. Cách cư xử này cho thấy người môn đệ được Đức Giêsu thương mến đang muốn thực hiện một hành vi bao dung và hoà giải. Ông tôn trọng người anh em mình và muốn để cho ông Phêrô được ưu tiên diễn tả tình yêu của ông đối với Thầy. 
 
Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (20,6-7). Ông Phêrô thấy các băng vải được xếp đó, nhưng có lẽ chưa hiểu ý nghĩa của chúng. Ngoài ra, ông còn thấy khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn che đầu này là yếu tố chung duy nhất giữa việc táng xác Đức Giêsu và việc an táng ông Lazarô. Khăn này là biểu trưng cho sự chết. Trong trường hợp ông Lazarô, chiếc khăn này che mặt ông, còn trong trường hợp Đức Giêsu, chiếc khăn này không che mặt Người, mà chỉ che đầu Người thôi. Điều đáng nói ở đây: chiếc khăn này bị cuốn lại, xếp riêng ra một nơi, phân biệt với các băng vải đang được để tại nơi Đức Giêsu đã từng an nghỉ. Sự chết đã bị “xếp riêng ra”, bị gạt sang một bên.
 
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (20,8). Người môn đệ này đã thấy những băng vải được xếp đó như để trang trí cho phòng hôn lễ, dấu hiệu của sự sống, của tình yêu, của hạnh phúc và của sự phong nhiêu. Ông hiểu rằng sự chết đã không làm đứt đoạn sự sống. Chiếc khăn biểu tượng cho sự chết đã không che mặt Đức Giêsu nhưng đã bị cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, vì sự chết không thể cầm tù Đấng ban sự sống được.
 
Một lần nữa tác giả Tin Mừng lại nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai môn đệ. Ông không nói gì về phản ứng của ông Phêrô khi nhìn thấy ngôi mộ trống với những băng vải được để đó và chiếc khăn biểu đạt sự chết được cuốn lại xếp riêng ra. Nhưng ông ghi nhận cách tường minh lòng tin của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến. Người môn đệ này luôn sống thân nghĩa và trung thành với Thầy Giêsu, nên đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa của những thực tại được trình bày trong ngôi mộ trống, cho dù “trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (20,.9).
 
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Ngôi mộ trống, yếu tố chính yếu của trình thuật Tin Mừng hôm nay, chứng tỏ Đức Giêsu không hề bị sự chết giam cầm. Đã bắt đầu một ngày mới. Trời đã rạng sáng. Cuộc Vượt Qua của Đức Kitô (cũng là của chính chúng ta) đã hoàn tất.
 
2. Hình ảnh bà Maria Magđala trong bài Tin Mừng là hình ảnh của cộng đoàn các đồ đệ đang đau khổ và mất hướng vì cái chết bi thảm của Đức Giêsu, Chúa của họ. Cộng đoàn đó được khắc hoạ trong hình ảnh bà Maria Magđala vẫn còn đi trong tối tăm, cho dù trời đã sáng rồi. Chúng ta cũng có thể và chắc chắn đã nhiều lần hành xử như bà Maria Magđala: quá đau khổ vì những thực tại đau thương trong cuộc sống, ta hoá ra như thể không còn khả năng tin vào một thế giới mới đã được khai mở với cuộc phục sinh của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Ngôi mộ trống và sự khiếm diện của Đức Giêsu bị hiểu sai thành bằng chứng của một mất mát lớn lao và đau đớn. Nhưng, như đoạn văn kế tiếp trong sách Tin Mừng tường thuật, chính Đức Giêsu sẽ đi tìm bà Maria và tỏ mình cho bà.
 
3. Những môn đệ thân tín từng gắn bó sâu xa với Đức Giêsu theo các mức độ khác nhau sẽ đón nhận sứ điệp từ ngôi mộ trống theo những cách thức và mức độ khác nhau. Tất cả đều không mong chờ sự phục sinh của Đức Giêsu, vì “họ chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”. Tuy nhiên, người môn đệ đã từng trải nghiệm sâu sắc tình yêu mến của Đức Giêsu và sống theo lệnh truyền của Người, thì nhanh chóng hơn trong việc “thấy và tin”. Ông nhận ra nơi ngôi một trống dấu hiệu của sự sống. Ông tin rằng Đức Chúa của ông đã sống lại. Mặc dù không phải là một bằng chứng tích cực của mầu nhiệm phục sinh, nhưng ngôi mộ trống và những băng vải được đặt trong đó, đối với ông, đã thực sự là dấu hiệu của sự sống. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã nhận ra ý nghĩa đó, và ông đã tin.
 
4. Không phải lúc nào chúng ta cũng được trải nghiệm về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong cuộc đời. Rất nhiều khi Người có vẻ khiếm diện. Rất nhiều lúc chúng ta chỉ gặp “ngôi mộ trống”. Nhưng đó là sự khiếm diện và trống vắng có giá trị của dấu chỉ về sự sống mới, sự sống đích thực, sự sống phong nhiêu và hoan lạc. Chính mối tương quan tình yêu của mỗi người chúng ta với Đức Kitô sẽ giúp chúng ta đi vào khoảng trống đó để thấy và tin, giống như người môn đệ được Đức Giêsu thương mến trong bài Tin Mừng hôm nay.
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, CSsR
 
CHÚA NHẬT PHỤC SINH – A –
Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên
 
I. GÍAO HUẤN P.Â.:
Chúa đã sống lại ngoài ức đoán của con người: Thấy mồ trống, Bà Maria Madalêna nghĩ là người ta trộm xác Chúa. Thấy Chúa Giêsu sống lại, bà nghĩ là người làm vườn.  
 
Chúa  đã sống lại thật: 
  • Hiện tượng mồ trống: Khối đá lấp cửa mồ đã lăn sang một bên; Xác Chúa Giêsu không còn trong mộ, khăn liệm vải liệm xếp gọn ghẻ sang bên.  
  • Chúa phục sinh hiện ra cho Maria Madalêna và bảo bà đi loan báo tin Chúa Phục Sinh cho các môn đệ Chúa.  
 
II.  VẤN NẠN P.Â.    
Ngày thứ nhất trong tuần là ngày nào trong Kinh Thánh?
  • Ngày Thứ Nhất trong tuần là  ngày Chúa Nhật tính theo Dương Lịch? 
  • Ngày Thứ Nhất trong tuần theo Kinh Thánh và  truyền thống của người Do Thái:
Từ “Ngày Thứ Nhất trong tuần” được xử dụng tám lần trong Kinh Thánh Tân Ước và chúng ta không  thấy đề cập đến từ Chúa Nhật: 
 
Bốn lần “ngày thứ nhất trong tuần” được nói đến trong Matthêô 28:1; Matcô 16:2; Luca 24:1 và Gioan 20:1 như chúng ta thấy trong Phúc Âm hôm nay. Tất cả bốn Phúc Âm đều nói đến “ngày thứ nhất trong tuần” như là ngày khám phá ra việc Chúa Phục Sinh.  Chắc chắn ngày Thứ Nhất trong tuần không phải là ngày Sabbath vì những người đàn bà mang thuốc thơm đến mộ Chúa ngày Thứ Nhất trong tuần vì họ không kịp làm chuyện nầy trong ngày Sabbath như trong Luca 23:56.
 
Hai lần khác nói đền “ngày thứ nhất trong tuần” là việc Chúa hiện ra trong cùng ngày được nói trong Phúc Âm Matcô 16:9 và Gioan 20:19. Trong Phúc Âm Gioan 10:19 nói đến việc Chúa hiện ra cho các tông đồ đang tụ họp trong phòng đóng kín cửa vì sợ người Do Thái dòm ngó. Họ tụ họp không phải để cử hành ngày Sabbath gì cả, nhưng xem chừng chỉ nói cho nhau về những tin đồn Chúa sống lại.
 
Thánh Phaolô giảng dạy trong “ngày thứ nhất trong tuần” như trong Công Vụ sứ Đồ 20:7 mô tả. Ai cũng hiều là chiều tối ngày Thứ Bảy sau khi mặt trời lặn theo như cách tính ngày của người Do Thái. Sau đó Phaolô đi Giêrusalem. Không thấy nói đến việc Phaolô giữ luật ngày Chúa Nhật. Trong thư Thứ Nhất của Thánh Phaolô gừi Giáo Đoàn Corintô 16:2 nói đến yêu cầu quyên góp giúp Hội Thánh nghèo ở Giuđêa vào ngày Thứ Nhất trong tuần. Nhưng đây là việc làm riêng tư chứ không phải là một quyên góp trong ngày nhóm họp Sabbath.
 
Kinh Thánh và truyền thống Do Thái cho thấy: Ngày Thứ Nhất trong tuần không phải là ngày Sabbath của Do Thái. Ngày Sabbath là ngày thứ bảy, ngày Đấng Tạo Hoá nghỉ sau sáu ngày tạo dựng như trong Sáng Thế Ký 2:2-3 mô tả. Sau nầy ngày Thứ Bảy tức ngày Sabbath thành ngày lễ buộc phải nghỉ cho toàn dân Do Thái như được ghi trong sách Xuất hành 20:11 và cả trong hai bia đá lề luật mà Môsê nhận ở núi Sinai (Xuất Hành 16, 23-30)
 
“Ngày thứ nhất trong tuần” là ngày sau ngày Sabbath, ngày nghỉ lễ mà sau nầy lịch Roma gọi là Dies Solis, ngày của Thần Mặt Trời, tức ngày Chúa Nhật bây giờ.
 
Ngày Thứ Nhất trong tuần là  ngày Chúa Nhật tính theo Dương Lịch 
Dương lịch, lịch tính theo Thái Dương hệ tức hệ mặt Trời. Đây là lối tính lịch của La Mã. Người La Mã gọi tên các ngày trong tuần theo tên của bảy hành tinh trong Thái Dương Hệ: Mặt Trời (Sun) – Mặt Trăng (Moon) – Hoà tinh (Mars) – Thuỷ tinh (Mercury) – Mộc tinh (Jupiter) – Kim tinh (Venus) – Thổ tinh (Saturn) 
  • Mặt trời – Sun - Sunday – Dies Solis – First Day - Ngày Chúa Nhật – Dies Dominica.
  • Mặt Trăng – Moon - Monday – Dies Lunae – Ngày Thứ  Hai.
  • Hoả  Tinh – Mars – Tuesday -  Dies Martis – Third Day - Ngày Thứ Ba.
  • Thuỷ  tinh – Mercury – Wednesday – Dies Mercurii – Fourth Day – Ngày thứ Tư.
  • Mộc Tinh – Jupiter – Thursday – Dies Jovis –  Fifth Day – Ngày Thứ Năm.
  • Kim Tinh – Venus – Friday – Dies Veneris – Ngày Thứ Sáu.
  • Thổ  tinh – Saturn – Saturday – Dies Saturni –  Ngày Thứ Bảy.  
 
Dương Lịch, lịch theo Thái Dương hệ của La Mã rất ảnh hưởng ngay từ thời bấy giờ và ảnh hưởng mạnh mẻ trong Kitô giáo. Nó minh định rằng: Ngày Chúa Nhật, Ngày thần Mặt Trời, ngày thứ nhất trong tuần, ngày của Chúa. Đó là ngày Chúa sống lại. Đó cũng là ngày mà con người phải thờ lạy Chúa theo như Chúa dạy trong điều răn Thứ Ba. Đó cũng là ngày lễ nghỉ cho mọi người. 
 
Như  vậy ngày Chúa Nhật theo Dương Lịch của La Mã đã loại bỏ hay thay thế hẵn ngày Sabbath, tức ngày lễ nghỉ của người Do Thái trong Đạo Cựu  Ước. Do Thái Giáo đã cho rằng Công Giáo, vì vấn đề truyền giáo cho dân ngoại tức người La Mã và các nước Âu Châu thời bấy giờ mà loại bỏ truyền thống Cựu Ước, lấy ngày Chúa Nhật, tức ngày thứ nhất trong tuần,  thay thế cho ngày Sabbath.  
 
Nếu Chúa Nhật là ngày thứ nhất trong tuần, tại sao lại nằm trong ‘weekend’, tức những ngày cuối tuần bao gồm Thứ Bảy và Chúa Nhật? Tự Điển Webster’s Ninth New Collegiate xuất bản năm 1983 cắt nghĩa: Từ ‘weekend’ được xử dụng năm 1878 tức 132 năm trước để nói rằng: Đó là thời gian của ngày kết thúc tuần làm việc và ngày bắt đầu tuần mới. Như vậy Chúa Nhật vẫn là ngày đầu tuần, ngày Thứ Nhất trong tuần và là ngày Chúa sống lại.  
       
Chúa Giêsu ở trong mộ đá bao lâu? Không tìm thấy một thống nhất trong các tường thuật của Phúc Âm? 
Các Phúc Âm Matthêô 28, 1; Matcô 16, 2; Luca 24,1 và Gioan 20,1 đều thống nhất một diểm là: Việc khám phá mồ trống xảy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức sáng sớm Chúa Nhật bây giờ. Cách hiểu thông thường: Chúa sống lại vào rạng sáng Chúa nhật.  
 
Như  vậy Chúa Giêsu ở trong mồ độ chỉ dài chừng 36 tiếng đồng hồ tức chỉ có 1 ngày rưởi chứ nào có được ba ngày tức 72 tiếng đồng hồ như Chúa nói trong Matthêô 12:40 khi so sánh Chúa bị chôn trong mồ như Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm? Nếu tính đủ trọn ba ngày, tức 72 tiếng đồng hồ thì Chúa phải chết vào chiều ngày Thứ Tư, hay sáng sớm Thứ Năm chứ không thể chiều Thứ Sáu được.
 
Nếu chúng ta đọc các sách Tân Ước như Phúc Âm Matthêô 16:21; 17:23; 20:19; 26:61; 27:40, 64; Matcô 9:31; 10:34; 14:58; 15:29; Luca 9:22; 13:32; 18:33; 24:7, 21, 46; Gioan 2:19, 20; Tông Đồ Công Vụ 10:40; Thư Thứ Nhất Thánh Phaolô gửi Côrintô 15:4. Chúng ta sẽ không thấy nói là: bị giết chết, chôn trong mồ trọn ba ngày rồi sống lại, nhưng tất cả đều nói là “Ngày Thứ Ba, Ngài sẽ sống lại”.
 
Như vậy Chúa sống lại đúng như lời Ngài tiên báo:
  • Chúa chết vào ba giờ chiều ngày Thứ Sáu, coi như  là ngày thứ nhất. Người ta vội vả chôn cất Chúa cho xong trước khi ngày Vượt Qua, tức ngày Sabbath bắt đầu lúc sáu giờ chiều.
  • Chúa trong mộ suốt ngày Thứ Bảy, coi như ngày thứ hai Chúa chết.
  • Ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa Nhật, ngày thứ ba sau khi Chúa chết, Chúa đã sống lại vinh quang.  
 
Cách giải thích khác.
Trong Matthêô 12:40 Chúa chỉ có ý so sánh Chúa  ở trong mồ, giống như Giôna trong bụng cá. Giôna là hình ảnh tiền trưng của Chúa Giêsu, để diễn tả việc Chúa chết, chôn trong mồ và sống lại. Chúa so sánh là so sánh sự kiện xảy ra, chứ không phải so sánh thời gian xảy ra của hai sự kiện. Hơn nữa chúng ta được cứu độ nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Chuyện Chúa Giêsu bị chôn trong mồ hai ngày, ba ngày hay 1 năm không là yếu tố quan trọng của ơn cứu độ.
 
III.  THỰC HÀNH P.Â.:
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II làm kẻ thù ám sát mình phục sinh:
 
Thường ai cũng hiểu phục sinh là sống lại. Ai cũng hiểu chỉ có Phục Sinh sau khi đã chết thật về phần xác. Tôi nhìn thấy ý nghĩa sống lại hay đời sống mới nơi bản thân mình sau mỗi lần biết tha thứ cho người làm hại mình. Niềm vui phục sinh nầy tôi học được rất nhiều nơi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
 
Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ĐGH đã bị một người đàn ông Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô như thường lệ.
 
Ngài lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng chạy thoát. Viên đạn chỉ đi xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, rồi rớt ngay trong xe, khiến Ngài dù bị mất đến 2/3 số máu trong cơ thể, nhưng vẫn được cứu sống kịp thời. Các bác sĩ cho rằng nếu viên đạn cắt ngang động mạch, Ngài sẽ chết tại chỗ hoặc trên đường cấp cứu. Về phần mình, Đức Giáo Hoàng lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Ðức Mẹ Maria
 
Sau khi hồi phục, Ngài đã tuyên bố với mọi người rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Đức Giáo Hoàng đã viết thư định gửi cho Ağca: "Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?" Nhưng thay vì gửi bức thư đó, Ngài đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, Ngài đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát Ngài. ĐGH còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.
 
Không những Ngài tha lỗi cho người khác mà còn nhiều lần xin người khác tha lỗi cho mình và cho toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xin lỗi những người Do Thái, Galileo, phụ nữ, những nạn nhân của Tòa án dị giáo, những người Hồi giáo bị những Thập Tự Quân tàn sát, và tất cả những người đã chịu đau khổ dưới bàn tay của Giáo hội Công giáo trong những năm tháng qua. Ngay khi chưa làm Giáo hoàng, ông đã biên soạn và ủng hộ các sáng kiến như Lá thư Hòa giải của Giám mục Ba Lan gửi Giám mục Đức vào năm 1965. Đến khi trở thành Giáo hoàng, ông đã chính thức công khai xin lỗi cho hơn 100 điều sai trái, bao gồm:
  • Vụ xử án nhà bác học và triết gia Galileo Galilei, một người mộ đạo, vào khoảng năm 1633 (vào ngày 31 tháng 10 năm 1992).
  • Những dính líu của Công giáo trong những cuộc buôn bán nô lệ châu Phi (vào ngày 9 tháng 8 năm 1993).
  • Vai trò của Giới tăng lữ Giáo hội trong những vụ hỏa thiêu và chiến tranh tôn giáo sau cuộc Cải cách Kháng cách (vào tháng 5 năm 1995, tại Cộng hòa Séc).
  • Các đối xử bất công đối với phụ nữ, vi phạm quyền phụ nữ và sự phỉ báng trước đây đối với phụ nữ (vào ngày 10 tháng 7 năm 1995, trong thư gửi "mọi phụ nữ").
  • Sự im lặng và làm ngơ của nhiều người Công giáo trong cuộc Diệt chủng người Do Thái (ngày 16 tháng 3 năm 1998)
 
Thường người ta hiều: Chiến thắng có nghĩa là đánh bại kẻ thù hay tiêu diệt kẻ thù. Không bao giờ thành công! Giết chết kẻ thù, nhưng còn bạn bè, dòng họ, con cháu của kẻ thù… Chúa đã chọn cách chiến thắng hay nhất: Biến thù thành bạn. Người ta có thề thù ghét mọi người trừ người thương mình.  Hãy sống như người mang sự sống mới, mang niềm vui phục sinh chiến thắng. Hãy sống như Chúa Kitô Phục Sinh: Quên đi những người đánh đập, xỉ nhục và giết chết mình và hướng về tương lai cứu độ. Hãy sống Như Chân Phước Gioan Phaolô II, sống sót sau lần bị ám sát và mang sự sống mới và ơn tha thứ đến cho người khác.  Kính lạy Thánh Gioan Phaolô II, xin ban cho chúng con lòng quảng đại biết tha thứ và sống niềm vui phục sinh như Ngài. Amen
 
Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên
 

[1] Xem cách lý luận của R.E. Brown, The Gospel according to John, I, xciii-xcviii.
[2] J.A. Grassi, The Secret Identity. Có thể xem ch. 13, từ trang 115.
[3] Dù người môn đệ này là ai, rất có thể tác giả của Ga 21 cũng là tác giả của 2 Ga và 3 Ga. Ngoài ra, chúng ta thấy dấu vết của cùng một bàn tay tác giả ở 3 Ga 12; Ga 19,35 và Ga 21,24 (x. 15,27: “anh em”).

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
LIÊN KẾT WEB SITE

Các Giáo Phận

Giáo phận Bà Rịa
Giáo phận Ban Mê Thuột
Giáo phận Bắc Ninh
Giáo phận Bùi Chu
Giáo phận Cần Thơ
Giáo phận Đà Lạt
Giáo phận Đà Nẵng
Giáo phận Hải Phòng
Tổng Giáo phận Huế
Giáo phận Hưng Hóa
Giáo phận Kon Tum
Giáo phận Lạng Sơn
Giáo phận Long Xuyên
Giáo phận Mỹ Tho
Giáo phận Nha Trang
Giáo phận Phan Thiết
Giáo phận Phát Diệm
Giáo phận Phú Cường
Giáo phận Qui Nhơn
Giáo phận Thái Bình
Giáo phận Thanh Hóa
Tổng Giáo phận TP HCM
Giáo phận Vinh
Giáo phận Vĩnh Long
Giáo phận Xuân Lộc

Các Giáo Phận

Giáo phận Bà Rịa
Giáo phận Ban Mê Thuột
Giáo phận Bắc Ninh
Giáo phận Bùi Chu
Giáo phận Cần Thơ
Giáo phận Đà Lạt
Giáo phận Đà Nẵng
Giáo phận Hải Phòng
Tổng Giáo phận Huế
Giáo phận Hưng Hóa
Giáo phận Kon Tum
Giáo phận Lạng Sơn
Giáo phận Long Xuyên
Giáo phận Mỹ Tho
Giáo phận Nha Trang
Giáo phận Phan Thiết
Giáo phận Phát Diệm
Giáo phận Phú Cường
Giáo phận Qui Nhơn
Giáo phận Thái Bình
Giáo phận Thanh Hóa
Tổng Giáo phận TP HCM
Giáo phận Vinh
Giáo phận Vĩnh Long
Giáo phận Xuân Lộc
CÁC DÒNG TU 
Dòng Chúa Cứu Thế VN 
Dòng Đồng Công (Hoa Kỳ) 
Dòng Ngôi Lời 
Dòng Chúa Cứu Thế (Hoa Kỳ) 
Dòng Thánh Tâm Huế 
Dòng Lasan 
Tỉnh Dòng Đa Minh VN 
Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ 
Dòng Tên Việt Nam 
Dòng Phanxicô VN 
Giáo Hoàng Học Viện Piô X ( Đà Lạt ) 
Đại Chủng Viện Huế 
Đại Chủng Viện Vinh Thanh - GP Vinh 
Đại Chủng Viện Xuân Lộc 
Dòng Thánh Thể 
Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ 
Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm (Hoa Kỳ)
Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế 
Dòng Mến Thánh Giá LA (gốc Phát Diệm) 
Dòng Đức Mẹ Trinh Vương 
Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời 
Dòng Đaminh Tam Hiệp 
Dòng Don Bosco 
Tu đoàn Tông Đồ Giáo Sĩ Nhà Chúa 
Dòng Thừa Sai Đức Tin VN 
Liên hiệp bề trên thượng cấp VN 
Dòng Nữ Tử Thánh Phaolô 
Dòng Đồng Công (Việt Nam) 
Dòng Chúa Thánh Thần 
Dòng Thừa Sai Bác Ái Chúa Kitô 
Dòng Truyền Giáo Thánh Carôlô - Scalabrini 
Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế
Lời Chúa Hằng Ngày
Radio Công Giáo

 
Hằng Ngày

 


 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây