TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI
BAN NĂM THÁNH
Kính gửi quý cha và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa trong tổng giáo phận.
Hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta đã bước vào Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015-2016. Đây là thời gian hồng ân và Giáo Hội mời gọi chúng ta sống Năm Toàn Xá này trong ánh sáng của Lời Chúa: "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ" (Lc 6,36). Để có được khả năng sống lòng thương xót, thì trước tiên, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa.
Để Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội qua Tông Chiếu "Dung Nhan Lòng Thương Xót" giúp cho cộng đoàn dân Chúa sống Năm Thánh cách cụ thể và sống động hơn, ban Năm Thánh gửi tới quý cha nội dung chương trình học hỏi để quý cha phổ biến cho mọi thành phần Dân Chúa trong các giáo hạt, giáo xứ hăng say học hỏi về Năm Thánh và Tin Mừng theo thánh Lu-ca.
Nội dung học hỏi gồm 2 phần:
- Phần I: Học hỏi Tông Chiếu "Dung Nhan Lòng Thương Xót"
- Phần II: Học hỏi về Tin Mừng theo thánh Lu-ca.
Giao cho ban giáo lý giáo phận triển khai chương trình học hỏi và thi cử này.
Kính mong quý cha quản hạt, quý cha phụ trách giáo lý tổ chức thi cấp giáo hạt trước, đội tuyển các giáo hạt sẽ về dự thi cấp giáo phận vào dịp tháng 8 năm 2016.
Kính chúc quý cha và anh chị em chan hòa ân phúc trong Năm Thánh.
Hà Nội, 15 tháng 01 năm 2016
Trưởng Ban Năm Thánh
+ Lôrenxô Chu Văn Minh
Giám mục Phụ tá Hà Nội
HỌC HỎI TÔNG CHIẾU
CÔNG BỐ NĂM THÁNH NGOẠI THƯỜNG
VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT
"DUNG NHAN LÒNG THƯƠNG XÓT"
DẪN NHẬP
1. H. Tông Chiếu là gì?
T. Tông Chiếu là một văn kiện, qua đó Đức Thánh Cha đưa ra một phán quyết quan trọng như công bố Năm Thánh, bổ nhiệm giám mục hay định tín, triệu tập công đồng, phong thánh vv... vì lợi ích của toàn thể các tín hữu.
2. H. Qua Tông Chiếu "Dung Nhan Lòng Thương Xót", Đức Thánh Cha ấn định điều gì?
T. Qua Tông Chiếu "Dung Nhan Lòng Thương Xót", Đức Thánh Cha ấn định Năm Thánh Ngoại Thường về Lòng Thương Xót sẽ bắt đầu từ ngày 8 tháng 12 năm 2015, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và kết thúc vào ngày 20 tháng 11 năm 2016, lễ Chúa Ki-tô Vua.
3. H. Năm Thánh là gì?
T. Năm Thánh là năm toàn xá, tức là thời điểm được qui định để chúng ta hoán cải, hòa giải, hiệp thông, hầu đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa một cách đặc biệt hơn.
4. H. Năm Thánh có từ khi nào?
T. Năm Thánh có từ thời Cựu Ước, được tiếp tục trong lịch sử Giáo Hội. Giáo Hội đã cử hành Năm Thánh đầu tiên vào năm 1300, và từ năm 1470, cứ 25 năm cử hành Năm Thánh một lần, gọi là thường kỳ. Ngoài ra, còn có những Năm Thánh ngoại thường kỷ niệm những biến cố trọng đại trong lịch sử cứu độ.
DUNG NHAN LÒNG THƯƠNG XÓT
5. H. Trong phần mở đầu, Tông Chiếu đề cập tới những gì?
T. Trong phần mở đầu, Tông Chiếu long trọng giới thiệu "Chúa Giê-su Ki-tô là dung nhan lòng thương xót của Chúa Cha" và khẳng định chúng ta cần phải "chiêm ngắm mầu nhiệm Lòng Chúa Thương Xót".
6. H. Tại sao Tông Chiếu giới thiệu "Chúa Giê-su Ki-tô là dung nhan lòng thương xót của Chúa Cha"?
T. Vì "trong Chúa Giê-su thành Na-da-rét, lòng thương xót của Chúa Cha trở nên sống động và rõ ràng, đồng thời tìm thấy đỉnh điểm của nó".
7. H. Trong Chúa Giê-su thành Na-da-rét, lòng thương xót của Thiên Chúa được cảm nghiệm một cách sống động và rõ ràng như thế nào?
T. Trong Chúa Giê-su thành Na-da-rét, lòng thương xót của Thiên Chúa được cảm nghiệm một cách sống động và rõ ràng đến nỗi ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9); đồng thời qua lời Ngài nói cũng như những công việc Ngài làm, chúng ta có được kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa (x. số 1).
8. H. Tại sao chúng ta cần phải "chiêm ngắm mầu nhiệm lòng Chúa thương xót"?
T. Vì lòng Chúa thương xót vừa là nguồn mạch của "niềm vui, sự thanh thản và bình an", vừa là điều kiện để chúng ta được cứu độ (x. số 2).
Ý NGHĨA NĂM THÁNH
9. H. Đối với Đức Thánh Cha, Năm Thánh về lòng thương xót có ý nghĩa gì?
T. Năm Thánh về lòng thương xót là thời điểm các tín hữu được mời gọi chiêm ngắm lòng Chúa thương xót cách chăm chú hơn, để có thể trở nên dấu chỉ hữu hiệu của mầu nhiệm Thiên Chúa hành động trong cuộc đời mình. Năm Thánh còn là cơ hội thuận tiện, để chứng từ của họ nên mạnh mẽ và hữu hiệu hơn.
10. H. Phương châm (khẩu hiệu) của Năm Thánh là gì?
T. Đó là: "Thương xót như Chúa Cha".
11. H. Nghi thức chính yếu để khai mạc Năm Thánh là nghi thức nào?
T. Đó là nghi thức mở Cửa Thánh, cánh cửa của lòng thương xót mà bất cứ ai bước vào, sẽ có được kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng "an ủi, tha thứ và ban cho niềm hy vọng".
12. H. Những cánh cửa nào sẽ được mở ra và mở ra lúc nào?
T. Trước hết, cửa đền thờ thánh Phê-rô sẽ được mở ra vào ngày 8 tháng 12 năm 2015. Kế đến, cửa nhà thờ chính tòa giáo phận Rô-ma và các giáo phận khác trên thế giới sẽ được mở ra vào Chúa Nhật, ngày 13 tháng 12 năm 2015 (số 3).
13. H. Việc các Giáo Hội địa phương tham gia vào việc cử hành và sống Năm Thánh có ý nghĩa gì?
T. Việc các Giáo Hội địa phương được Đức Thánh Cha mời gọi cử hành và sống Năm Thánh là dấu chỉ hữu hình của sự hiệp thông trong toàn thể Giáo Hội.
Ý NGHĨA LÒNG THƯƠNG XÓT
14. H. Tông chiếu giải thích thế nào về từ ngữ "lòng thương xót"?
T. Tông chiếu nói đến 4 ý nghĩa của "lòng thương xót":
- Thứ nhất, "lòng thương xót" mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Thứ hai, "lòng thương xót" là hành động cao cả Thiên Chúa đến gặp gỡ con người.
- Thứ ba, "lòng thương xót" là qui luật nền tảng, ngự trị trong tim của mỗi người, giúp ta nhìn về anh chị em với cặp mắt chân thành.
- Thứ tư, "lòng thương xót" là con đường gắn kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng ta về niềm hy vọng rằng mình được yêu thương mãi, dù còn nhiều tội lỗi.
THỜI GIAN NĂM THÁNH
15. H. Tại sao Đức Thánh Cha chọn khai mạc Năm Thánh vào ngày 8 tháng 12 năm 2015?
T. Vì Đức Thánh Cha muốn kỷ niệm 50 năm sau ngày bế mạc Công Đồng Chung Va-ti-can II, Công Đồng đã mở ra cho Giáo Hội một trang sử mới trong việc loan báo Tin Mừng, nhằm giúp các tín hữu dấn thân làm chứng cho đức tin với tất cả niềm hăng say và có sức thuyết phục hơn. Giáo Hội cảm thấy có trách nhiệm là dấu chỉ sống động cho tình yêu của Chúa Cha trên trần gian.
16. H. Đức Thánh Cha đã nhắc lại những gì trong lời khai mạc Công Đồng của thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII?
T. Đức Thánh Cha đã nhắc lại những lời đầy ý nghĩa này:
- "Ngày nay, Hiền Thê của Đức Ki-tô thích dùng phương dược chữa lành của lòng thương xót hơn là khí giới của sự nghiêm khắc. [...]
- Giáo Hội Công Giáo khi giương cao ngọn đuốc của chân lý tôn giáo, muốn là người mẹ khả ái của mọi người, người mẹ tốt lành, nhẫn nại, đầy khoan dung và nhân hậu với những người con lìa xa Giáo Hội".
17. H. Đức Thánh Cha đã nhắc lại những gì trong lời bế mạc Công Đồng của chân phúc Phao-lô VI?
T. Đức Thánh Cha đã nhắc lại điều này: "Qui luật của Công Đồng trước hết là Đức Ái. [...] Mọi sự phong phú về giáo thuyết chỉ nhằm một mục đích duy nhất là phục vụ con người, cho dù họ đang sống trong hoàn cảnh nào, đau khổ nào và có những nhu cầu nào ".
18. H. Tại sao Đức Thánh Cha chọn kết thúc Năm Thánh vào ngày 20 tháng 11 năm 2016 với lễ Chúa Ki-tô Vua?
T. Vì Đức Thánh Cha muốn trao phó đời sống của Giáo Hội cùng toàn thể nhân loại và vũ trụ cho vương quyền của Chúa Ki-tô, để Ngài gieo vãi lòng thương xót như sương mai vào trong lịch sử và làm cho nó đơm hoa kết trái, thúc đẩy mọi người dấn thân lo cho tương lai sắp đến (số 5).
TÂM TÌNH – THÁI ĐỘ SỐNG NĂM THÁNH
19. H. Đức Thánh Cha muốn chúng ta bước vào Năm Thánh với tâm tình và thái độ nào?
T. Đức Thánh Cha muốn :
- Nhờ sức mạnh của Chúa Phục sinh nâng đỡ, chúng ta bước vào Năm Thánh với tâm tình biết ơn về ân huệ Giáo Hội đã lãnh nhận và ý thức trách nhiệm của mình.
- Ngài xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nâng đỡ từng bước đi của các tín hữu, để họ cộng tác vào công trình cứu độ mà Đức Ki-tô mang lại, và giúp họ chiêm ngắm dung nhan của lòng thương xót (số 4).
20. H. Đức Thánh Cha mong ước Năm Thánh đem lại những gì cho mọi người?
T. Đức Thánh Cha mong ước:
- Những năm sắp tới thấm đẫm lòng thương xót, để chúng ta có thể mang đến cho mọi người lòng nhân hậu và sự dịu hiền của Thiên Chúa.
- Ngài cũng ước mong hương thơm của lòng thương xót có thể lan tỏa đến tất cả mọi người, như là dấu chỉ của Triều Đại Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta (số 5).
21. H. Lòng thương xót có phải là dấu chỉ của sự yếu đuối và đối nghịch với quyền năng của Thiên Chúa không?
T. Không, lòng thương xót không là dấu chỉ của sự yếu đuối, nhưng là phẩm tính toàn năng của Thiên Chúa, vì "Chúa biểu dương quyền năng của Chúa trong sự thương xót và tha thứ". Trong lịch sử nhân loại, Thiên Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chăm sóc, thánh thiện và thương xót (số 6).
CỰU ƯỚC DIỄN TẢ LÒNG THƯƠNG XÓT
22. H. Để diễn tả bản tính của Thiên Chúa, Cựu Ước thường dùng cặp từ nào?
T. Để diễn tả bản tính của Thiên Chúa, Cựu Ước thường dùng cặp từ "chậm bất bình và giàu lòng thương xót". Trong Cựu Ước, lòng thương xót của Thiên Chúa biểu lộ cách cụ thể trong các biến cố của lịch sử cứu độ, nơi mà lòng nhân hậu vượt trên sự trừng phạt và hủy diệt (số 6).
23. H. Các Thánh Vịnh cho thấy hành động của Thiên Chúa cao cả thế nào?
T. Các Thánh Vịnh cho thấy Thiên Chúa :
- "Ngài tha cho ta muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật của ta, cứu ta khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ta bằng ân nghĩa với lượng hải hà" (Tv 103, 3-4).
- " Ngài xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân" (Tv 146, 7-9).
- "Ngài chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. [...] Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen" (Tv 147,3.6).
24. H. Lòng thương xót có phải là một khái niệm trừu tượng không?
T. Không, lòng thương xót là một thực tại cụ thể, qua đó, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài như là tình yêu sâu thẳm trong lòng của người cha hay người mẹ dành cho con cái; một tình yêu sâu xa và tự nhiên, bắt nguồn từ sự dịu dàng và thương xót, khoan dung và tha thứ (x. số 6).
25. H. Điệp khúc "Vì lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời" của Thánh Vịnh 136, theo Đức Thánh Cha, có ý nghĩa gì?
T. Điệp khúc này cho thấy: lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm cho lịch sử Ít-ra-en trở thành lịch sử cứu độ, phá vỡ chu kỳ không gian và thời gian, đi vào mầu nhiệm vĩnh cửu của tình thương. Không những trong lịch sử, mà từ muôn đời, con người luôn sống dưới cái nhìn đầy thương xót của Chúa Cha (số 7).
TÂN ƯỚC DIỄN TẢ LÒNG THƯƠNG XÓT
26. H. Theo thánh sử Mát-thêu, Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Thánh Vịnh của lòng thương xót (Tv 136) này khi nào?
T. Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Thánh Vịnh của lòng thương xót này trước khi chịu nạn và chịu chết. Trong chính bối cảnh của lòng thương xót, Ngài đã chịu nạn và chịu chết, với ý thức sâu xa về mầu nhiệm cao cả của tình yêu mà Ngài sẽ hoàn thành trên thập giá.
27. H. Việc Chúa Giê-su cầu nguyện với Thánh Vịnh của lòng thương xót này nhắc nhớ các tín hữu điều gì?
T. Việc Chúa Giê-su cầu nguyện với Thánh Vịnh của lòng thương xót nhắc nhớ các tín hữu quý chuộng Thánh Vịnh này và thúc đẩy chúng ta cầu nguyện mỗi ngày với điệp khúc: "vì lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời" (x. số 7).
28. H. Tại sao nhìn ngắm Chúa Giê-su và dung nhan đầy lòng thương xót của Ngài, chúng ta có thể đón nhận được tình yêu của Ba Ngôi chí thánh?
T. Vì thánh Gio-an đã xác quyết: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8.16) và tình yêu này đã được thể hiện cách hữu hình và có thể chạm tới được trong suốt cuộc đời của Chúa Giê-su.
Bản thân Chúa Giê-su là tình yêu, một tình yêu được trao ban cách nhưng không.
Mọi sự nơi Chúa Giê-su đều bày tỏ và mang dấu ấn của lòng thương xót: Ngài đến gặp những người tội lỗi, nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, cảm thông và đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất của họ.
29. H. Câu chuyện nào trong Tin Mừng Mát-thêu đã gây ấn tượng mạnh cho Đức Thánh Cha?
T. Đó là câu chuyện Chúa Giê-su chọn gọi ông Mát-thêu, một người thu thuế trở thành một thành viên trong Nhóm Mười Hai. Chúa đã nhìn ông với cái nhìn thương xót, đã tha thứ tội lỗi cho ông, dẫu các môn đệ khác có phật lòng.
Thánh Bê-đa đã chú giải đoạn Tin Mừng này như sau: Chúa Giê-su đã nhìn Mát-thêu với lòng thương xót và đã chọn ông: "miserando atque eligendo" (chạnh lòng thương và tuyển chọn). Lời này đã đánh động Đức Thánh Cha đến nỗi Ngài đã lấy nó làm khẩu hiệu giám mục của mình (x. số 8).
30. H. Trong các dụ ngôn về lòng thương xót, ba dụ ngôn con chiên lạc, đồng tiền bị mất và người cha có hai người con trai, mô tả Thiên Chúa thế nào?
T. Ba dụ ngôn này mô tả Thiên Chúa như người cha nhân hậu luôn tràn đầy niềm vui, đặc biệt khi tha thứ. Nơi các dụ ngôn, chúng ta tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và đức tin của chúng ta, vì lòng thương xót được trình bày như một sức mạnh vượt thắng tất cả, lấp đầy trái tim bằng tình yêu và an ủi, qua sự tha thứ.
THƯƠNG XÓT LÀ THA THỨ
31. H. Sau khi kể dụ ngôn "kẻ mắc nợ không có lòng thương xót", Chúa Giê-su kết luận thế nào?
T. Chúa Giê-su kết luận rằng: "Cha của Thầy ở trên trời cũng đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình" (Mt 18,35).
32. H. Với kết luận này, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì?
T. Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta rằng: lòng thương xót qua việc tha thứ, không chỉ là hành động của Chúa Cha, mà còn là mệnh lệnh và là tiêu chuẩn để nhận biết ai thực sự là con cái của Chúa.
33. H. Chúng ta phải làm gì để sống thương xót?
T. Chúng ta phải "tha thứ cho những xúc phạm đến chúng ta", vì lòng thương xót đã được ban cho chúng ta trước.
34. H. Sự tha thứ đem lại lợi ích gì cho chúng ta?
T. Sự tha thứ đem lại cho chúng ta bình an nội tâm, hóa giải oán thù, sống đời hạnh phúc. Sự tha thứ còn là bằng chứng của niềm tin và sự hoàn thiện (số 9).
35. H. Mối phúc nào thúc đẩy chúng ta dấn thân trong Năm Thánh?
T. Đó là "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (Mt 5,7).
36. H. Khi khẳng định lòng Chúa thương xót là trách nhiệm của Chúa đối với chúng ta, Đức Thánh Cha muốn nói điều gì?
T. Đức Thánh Cha muốn nói Thiên Chúa cảm thấy có trách nhiệm, nghĩa là Ngài muốn chúng ta được hưởng mọi sự tốt lành và muốn chúng ta được hạnh phúc, được tràn đầy niềm vui và bình an. Đến lượt mình, người Ki-tô hữu cũng phải có trách nhiệm đối với tha nhân (x. số 9).
LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ NỀN TẢNG
CỦA ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
37. H. Tại sao lòng thương xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội?
T. Vì mọi hoạt động mục vụ cũng như lời loan báo và chứng từ của Giáo Hội không thể thiếu lòng thương xót.
38. H. Có cách nào giúp Giáo Hội trở nên khả tín không?
T. Chỉ có cách thực thi lòng thương xót và trắc ẩn.
39. H. Tại sao Giáo Hội có một ước muốn bất tận để thực thi lòng thương xót, lại có thể quên điều hệ trọng này?
T. Vì hai lý do này:
- Một là Giáo Hội chiều theo cám dỗ đòi hỏi và chỉ đòi hỏi công bình mà thôi.
- Hai là kinh nghiệm tha thứ ngày càng trở nên hiếm hoi trong nền văn hóa của chúng ta.
40. H. Thiếu chứng tá về sự tha thứ, cuộc sống trở nên cằn cỗi và vô sinh, y hệt như sống trong sa mạc. Trong hoàn cảnh này, Giáo Hội phải làm gì?
T. Giáo Hội phải tìm lại niềm vui loan báo về sự tha thứ, đồng thời trở về với những điều căn bản để mang lấy những yếu đuối và khó khăn của anh chị em chúng ta, vì sự tha thứ là sức mạnh khơi nguồn cho sự sống mới và mang lại sự can đảm để nhìn về tương lai trong hy vọng (x. số 10).
41. H. Tông Chiếu nhắc đến Thông Điệp "Thiên Chúa giàu lòng thương xót" của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và ghi nhận những điểm nào?
T. Tông Chiếu ghi nhận hai điểm này:
- Một là chủ đề lòng thương xót bị lãng quên trong nền văn hóa hiện nay.
- Hai là thúc đẩy việc loan báo và làm chứng cho lòng thương xót trong thế giới đương đại.
42. H. Tông Chiếu nhận định về giáo huấn của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thế nào?
T. Đó là giáo huấn hết sức hợp thời và đáng được tìm hiểu trong Năm Thánh này.
43. H. Khi dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hóa, Giáo Hội cần quan tâm đến chủ đề lòng thương xót như thế nào?
T. Giáo Hội phải quan tâm đến chủ đề lòng thương xót với lòng nhiệt thành mới và qua hoạt động mục vụ được đổi mới (x. số 11).
44. H. Để có được sự tín nhiệm và lời loan báo về lòng thương xót có được sự khả tín, Giáo Hội phải làm gì?
T. Giáo Hội phải sống và làm chứng cho lòng thương xót.
45. H. Để sống và làm chứng cho lòng thương xót, Giáo Hội phải làm gì?
T. Giáo Hội phải thông truyền lòng thương xót qua ngôn ngữ và cử chỉ của mình, thứ ngôn ngữ và cử chỉ có khả năng chạm đến con tim của mọi người và khuyến khích họ trở về với Chúa Cha. Nói cách khác, Giáo Hội phải hiến mình làm đầy tớ và trung gian cho tình yêu của Đức Ki-tô là yêu đến độ tha thứ và trao ban chính mình. Nhờ đó, Giáo Hội hiện diện ở đâu, thì mọi người nhận ra lòng thương xót của Chúa Cha ở đó (x. số 12).
NHỮNG CHỈ DẪN SỐNG NĂM THÁNH
46. H. Tông Chiếu mời gọi chúng ta sống Năm Thánh dưới ánh sáng của câu Tin Mừng nào?
T. Dưới ánh sáng của câu Tin Mừng này: "Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót" (Lc 6,36). Đó cũng là "phương châm" của Năm Thánh.
47. H. "Hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót", câu này có nghĩa gì?
T. Câu này có nghĩa là lòng thương xót của Chúa Cha vừa là nguồn mạch vừa là khuôn mẫu cho lòng thương xót của chúng ta. Chính Thiên Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi thân phận yếu đuối và giúp chúng ta có thể đến gần Ngài. Từ đó, chúng ta cũng có thể thương xót như Chúa đã xót thương, tức hiến trọn thân mình và không cần đền đáp (x. số 14).
48. H. Để có khả năng thương xót, trước tiên chúng ta phải làm gì?
T. Chúng ta phải lắng nghe và suy niệm Lời Chúa.
49. H. Để có thể lắng nghe cũng như suy niệm Lời Chúa, chúng ta phải làm gì?
T. Chúng ta phải khám phá lại giá trị của sự thinh lặng. Nhờ đó, chúng ta mới có thể chiêm ngưỡng lòng thương xót của Thiên Chúa và biến lòng thương xót làm lối sống của mình (x. số 13).
50. H. Dấu chỉ đặc biệt của Năm Thánh là gì?
T. Dấu chỉ đặc biệt của Năm Thánh là hành hương.
51. H. Tại sao hành hương lại là dấu chỉ đặc biệt của Năm Thánh? (số 14)
T. Vì cuộc sống là một cuộc hành hương và chúng ta là những kẻ lữ hành đang tiến về đích điểm mong đợi. Tất cả chúng ta phải thực hiện một cuộc hành hương tới lòng thương xót: một cuộc hành hương đòi hỏi dấn thân và hy sinh. Nhờ đó, chúng ta tìm được sức mạnh để đón nhận lòng Chúa thương xót, đồng thời hiến mình cho lòng thương xót anh em, như Chúa Cha đã thương xót chúng ta.
52. H. Để đạt tới lòng thương xót, cuộc hành hương trong Năm Thánh phải trải qua những chặng đường nào?
T. Chúa Giê-su đã dạy ta những chặng đường để đến lòng thương xót, đó là:
- Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị xét đoán.
- Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị lên án.
- Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được thứ tha.
- Anh em hãy cho, thì sẽ được cho lại.
- Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy (Lc 6, 37-38).
53. H. Việc chúng ta xét đoán anh em xuất phát từ những nguyên nhân nào và gây ra những hậu quả nào?
T. Chúng ta xét đoán anh em vì cái nhìn phiến diện do ghen tương và đố kỵ, và vì sự giả định mình biết hết mọi sự. Rốt cuộc, chúng làm cho cuộc sống của anh em trở nên ảm đạm, làm cho họ mất uy tín và bỏ mặc họ cho sự đàm tiếu của thiên hạ.
54. H. Để khỏi xét đoán và lên án anh em, chúng ta nên làm gì?
T. Chúng ta nên tránh nói xấu và nhận ra điều tốt đẹp nơi người anh em.
55. H. Ngoài việc đừng xét đoán, chúng ta còn phải làm gì để tỏ lòng thương xót?
T. Chúng ta còn phải tha thứ và sẵn sàng cho đi, vì chính bản thân chúng ta đã được Chúa tha thứ và ban cho biết bao ơn lành hồn xác.
SỐNG THƯƠNG XÓT CÁCH CỤ THỂ
56. H. Chúng ta được mời gọi làm gì trong Năm Thánh này?
T. Một mặt chúng ta được mời gọi nhìn ra những nỗi khốn cùng của thế giới, lắng nghe tiếng kêu cứu của những người cùng khổ, quan tâm và chăm sóc cho những người bị bỏ rơi. Mặt khác, chúng ta được mời gọi phá đổ những rào cản được dựng lên do sự thờ ơ lãnh đạm, giả hình và ích kỷ.
57. H. Chúng ta còn được mời gọi làm gì nữa trong Năm Thánh này?
T. Chúng ta còn được mời gọi khám phá lại:
- Các mối thương thể xác như: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi và chôn xác kẻ chết.
- Các mối thương linh hồn như: lấy lời lành mà khuyên người, mở dậy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
58. H. Theo thánh Gio-an Thánh Giá, khi lìa đời, chúng ta sẽ được phán xét trên cơ sở nào?
T. Theo thánh Gio-an Thánh Giá: "vào cuối cuộc đời, chúng ta sẽ chịu phán xét về tình yêu" (số 15).
59. H. Trong Tin Mừng thánh Lu-ca, có câu chuyện nào giúp chúng ta sống đức tin trong Năm Thánh?
T. Có câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng. Ngài vào hội đường và đứng lên đọc Sách Thánh, đoạn trích từ sách ngôn sứ I-sai-a: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa" (Lc 4, 18-19).
60. H. Qua câu chuyện này, Đức Thánh Cha mong ước điều gì về Năm Thánh?
T. Đức Thánh Cha mong ước các Ki-tô hữu trong Năm Thánh: hãy làm cho sứ mạng của Chúa Giê-su được mô tả trong lời của ngôn sứ I-sai-a, trở nên hữu hình và phong phú, nhờ sự đáp trả đức tin mà họ thực hiện qua chứng tá của mình.
MÙA CHAY – SỐT SẮNG SỐNG NĂM THÁNH
61. H. Vì sao mùa Chay trong Năm Thánh là thời gian thuận tiện để cử hành và trải nghiệm lòng Chúa thương xót? (số 17)
T. Vì các trang Thánh Kinh trong mùa này giúp chúng ta khám phá lại dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng quý chuộng lòng nhân từ và luôn thứ tha mọi tội lỗi của chúng ta.
62. H. Theo ngôn sứ I-sai-a, đâu là cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích?
T. Theo ngôn sứ I-sai-a, cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích là: xóa bỏ xiềng xích bất công, trả tự do cho người bị áp bức, chia cơm sẻ áo cho người đói rách, không ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi khốn cùng của tha nhân (x. Is 58, 6-11).
63. H. Đức Thánh Cha cổ võ cho sáng kiến "hai mươi bốn giờ cho Chúa" cử hành vào thứ Sáu và thứ Bảy trước Chúa Nhật thứ IV mùa Chay thế nào?
T. Đức Thánh Cha khuyến khích các giáo phận cử hành sáng kiến này, vì có rất nhiều người tìm đến Bí tích Hòa Giải để quay về với Chúa, để cầu nguyện và để tìm lại ý nghĩa cho cuộc đời của mình.
64. H. Bí tích Hoà Giải quan trọng nơi hối nhân thế nào?
T. Bí tích Hoà Giải giúp hối nhân đụng chạm đến sự cao cả của lòng thương xót và đem lại bình an trong tâm hồn.
LINH MỤC GIẢI TỘI NĂM THÁNH
65. H. Đức Thánh Cha mong mỏi điều gì nơi các linh mục giải tội?
T. Đức Thánh Cha mong mỏi các linh mục giải tội là dấu chỉ đích thực lòng thương xót của Chúa Cha và trở thành các linh mục giải tội tốt lành, nhờ trở nên những hối nhân hằng tìm kiếm lòng thương xót của Người.
66. H. Vì sao các linh mục có trách nhiệm giải tội?
T. Vì các ngài đã được lãnh nhận Thánh Thần để tha tội.
67. H. Các linh mục giải tội có phải là chủ nhân của Bí tích Hòa Giải không?
T. Không, các ngài chỉ là tôi tớ trung thành phục vụ cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót và hay tha thứ.
68. H. Các linh mục giải tội phải có thái độ nào đối với hối nhân?
T. Các linh mục giải tội phải đón nhận hối nhân như người cha trong dụ ngôn "người cha nhân hậu"; nghĩa là "vui mừng vì họ đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy".
69. H. Đức Thánh Cha cầu cho các linh mục giải tội những gì?
T. Đức Thánh Cha cầu cho các linh mục giải tội đừng hỏi những câu vô ích, đồng thời biết đón nhận lời hối nhân xin trợ giúp và ơn tha thứ thốt lên từ đáy lòng của họ.
70. H. Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục giải tội làm gì?
T. Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục giải tội mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh, trở thành dấu chỉ về sự ưu việt của lòng Chúa thương xót (x. số 17).
CÁC VỊ THỪA SAI LÒNG THƯƠNG XÓT
71. H. Trong mùa Chay của Năm Thánh, Đức Thánh Cha gửi các vị thừa sai của lòng Chúa thương xót đến với các giáo phận nhằm mục đích gì?
T. Các vị thừa sai của lòng Chúa thương xót được sai đến với các giáo phận nhằm mục đích bày tỏ sự quan tâm từ mẫu của Giáo Hội đối với Dân Chúa và để Dân Chúa cảm nghiệm được sự phong phú của mầu nhiệm căn bản này của đức tin.
72. H. Với tư cách là thừa sai của lòng Chúa thương xót, các vị ấy sẽ làm gì?
T. Với tư cách là thừa sai của lòng Chúa thương xót, các vị ấy sẽ rao giảng về lòng Chúa thương xót và có quyền tha thứ cả những tội lỗi chỉ Tòa Thánh mới có quyền xá giải. Các ngài sẽ là dấu chỉ sống động về cách Chúa Cha, sẵn sàng tiếp đón những ai tìm kiếm sự tha thứ của Ngài và là khí cụ của sự gặp gỡ đầy tình người, để khắc phục những chướng ngại và nhận lại cuộc sống mới của Bí tích Rửa Tội.
73. H. Đức Thánh Cha xin các giám mục mời và đón tiếp các vị thừa sai của lòng Chúa thương xót thế nào?
T. Đức Thánh Cha xin các giám mục:
- Tạo điều kiện để các vị thừa sai có thể rao giảng về lòng Chúa thương xót và tổ chức "tuần đại phúc".
- Để các vị này cử hành Bí tích Hòa Giải cho anh chị em giáo dân. Nhờ đó, nhiều người được trở về với Thiên Chúa là Cha trong mùa Chay Thánh này (x. số 18).
KÊU GỌI CÁC PHẦN TỬ TRỞ VỀ
74. H. Nhân danh Con Thiên Chúa, Đức Thánh Cha tha thiết mời gọi những ai thay đổi cuộc sống và trở về với Thiên Chúa?
T. Đức Thánh Cha tha thiết mời gọi những người đã xa rời ân sủng của Thiên Chúa do cách ăn ở của mình, đặc biệt là thành viên của các tổ chức tội phạm, cần thay đổi cuộc sống và trở về với Thiên Chúa.
75. H. Vì sao Đức Thánh Cha mời gọi những người này thay đổi cuộc sống và trở về với Thiên Chúa?
T. Vì ba lý do này:
- Thứ nhất, vì thiện ích của chính họ.
- Thứ hai vì tiền bạc không đem lại cho họ hạnh phúc đích thật và bạo lực cũng không làm cho họ trở nên quyền năng và bất tử.
- Thứ ba vì họ không thể thoát khỏi sự phán xét của Thiên Chúa.
76. H. Đức Thánh Cha còn mời gọi những ai cần thay đổi cuộc sống và trở về với Thiên Chúa?
T. Đức Thánh Cha còn mời gọi những kẻ tham nhũng hoặc những ai đồng lõa với sự tham nhũng, cần thay đổi cuộc sống và trở về với Thiên Chúa, vì tham nhũng là một tội ác. Nó hủy hoại đời sống cá nhân và xã hội, đồng thời ngăn cản những người yếu đuối và nghèo khổ nhìn về tương lai với niềm hy vọng.
77. H. Theo Đức Thánh Cha, chúng ta phải làm gì để chiến thắng chước cám dỗ này?
T. Chúng ta phải làm hai việc này:
- Một là phải khôn ngoan, tỉnh thức, trung thực, minh bạch và can đảm khước từ.
- Hai là phải công khai chống lại sự tham nhũng, bằng không sớm muộn rồi chúng ta cũng sẽ đồng lõa với nó và để cho nó hủy hoại cuộc sống của mình.
78. H. Vì sao Năm Thánh là thời gian thuận tiện để thay đổi cuộc sống?
T. Vì Năm Thánh:
- Là thời gian để con tim của chúng ta rung động.
- Là lúc để chúng ta lắng nghe tiếng khóc của những người vô tội bị tước đoạt tài sản, nhân phẩm, cảm xúc và cả cuộc đời của họ.
- Là cơ hội để chúng ta chấp nhận lời mời gọi hoán cải và quy phục đức công chính (x. số 19).
CÔNG CHÍNH VÀ THƯƠNG XÓT
79. H. Công chính và lòng thương xót có đối nghịch với nhau không?
T. Không, công chính và lòng thương xót không đối nghịch nhau, nhưng là hai mặt của một thực tại duy nhất; thực tại này phát triển dần cho tới tột đỉnh của nó là tình yêu trọn hảo.
80. H. Trong Thánh Kinh, công chính được hiểu như thế nào?
T. Trong Thánh Kinh, công chính có khi được hiểu như là việc giữ trọn lề luật Chúa và sống theo lệnh truyền của Ngài. Cách hiểu này mang nặng tính pháp lý và nhiệm nhặt, làm sai lệch ý nghĩa ban đầu: Đức công chính chủ yếu là sự tín thác hoàn toàn vào thánh ý Thiên Chúa.
81. H. Chúa Giê-su hiểu công chính là gì?
T. Chúa Giê-su hiểu công chính không đơn thuần là việc tuân thủ pháp luật, nhưng là ơn tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa, dành cho những người tội lỗi. Vì cách hiểu mang tính giải phóng và đổi mới này, mà Chúa Giê-su đã bị những người Pha-ri-sêu và luật sĩ chống đối. Đối với Ngài, việc tuân giữ lề luật không được phép cản trở lòng thương xót và nghịch lại với phẩm giá của con người.
82. H. Để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lòng Chúa thương xót trong đời sống của các môn đệ, Chúa Giê-su trích dẫn câu nào của tiên tri Hô-sê?
T. Để nhấn mạnh đến lòng Chúa thương xót trong đời sống của các môn đệ, Chúa Giê-su thường trích dẫn câu: "Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế" (Hs 6,6).
83. H. Vì sao lòng Chúa thương xót là chiều kích căn bản của sứ mạng của Chúa Giê-su?
T. Vì Chúa Giê-su luôn vượt trên lề luật, để giúp cho những người coi trọng việc tuân giữ lề luật cần phải hiểu và đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
84. H. Việc trở lại với Chúa Giê-su đã thay đổi thánh Phao-lô, vị tông đồ của dân ngoại như thế nào?
T. Việc trở lại với Chúa Giê-su đã thay đổi hoàn toàn cái nhìn của thánh Phao-lô về công lý, đến nỗi Ngài đã viết trong thư gửi tín hữu Ga-la-ta: "Chúng ta được nên công chính nhờ lòng tin vào Ðức Ki-tô, chứ không phải nhờ những công việc của lề luật" (Gl 2,16). Đức công chính của Thiên Chúa giờ đây trở thành sự giải phóng cho những ai bị áp bức bởi nô lệ tội lỗi và những hậu quả của nó (x. số 20).
85. H. Lòng thương xót đem lại cho tội nhân những gì?
T. Lòng thương xót đem lại cho tội nhân một cơ hội mới để sám hối, trở lại và tin tưởng.
86. H. Kinh nghiệm của tiên tri Hô-sê cho thấy lòng thương xót trổi vượt trên công bình như thế nào?
T. Kinh nghiệm của tiên tri Hô-sê cho thấy Thiên Chúa chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Cơn giận của Ngài chỉ thoáng qua, nhưng lòng thương xót của Ngài tồn tại mãi.
87. H. Khi đi xa hơn công bình với lòng thương xót và tha thứ, Thiên Chúa có phủ nhận công bình không?
T. Không, Thiên Chúa không phủ nhận công bình, nhưng bao trùm và vượt qua nó nhờ biến cố cao đẹp hơn, nhờ đó, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu, vì tình yêu chính là nền tảng của công bình đích thực.
88. H. Công bình của Thiên Chúa là gì?
T. Công bình của Thiên Chúa là lòng Chúa thương xót được ban cho tất cả chúng ta, như là ân sủng tuôn tràn từ cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su Ki-tô (x. số 21).
ÂN XÁ TRONG NĂM THÁNH
89. H. Chúng ta phải hiểu về ân xá trong Năm Thánh thế nào?
T. Chúng ta phải hiểu về ân xá trong Năm Thánh thế này: Dù chúng ta đã được tha thứ tội lỗi qua Bí tích Hòa Giải, cuộc sống của chúng ta vẫn còn mang dấu tích của những mâu thuẫn do tội gây ra và ảnh hưởng tiêu cực của nó vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và cách sống của chúng ta. Trước tình trạng ấy, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương xót và giải thoát chúng ta khỏi mọi hậu quả của tội lỗi, đồng thời cho chúng ta khả năng hành động với đức ái và lớn lên trong tình yêu.
90. H. Ân xá trong Năm Thánh cho chúng ta kinh nghiệm gì về Giáo Hội ?
T. Ân xá trong Năm Thánh cho chúng ta kinh nghiệm về sự thánh thiện của Giáo Hội, cho ta hưởng nhờ thành quả ơn Chúa cứu chuộc; nhờ đó, ơn tha thứ đạt tới hiệu quả tột cùng là gặp được tình yêu của Thiên Chúa (x. số 22).
LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ ĐẠI KẾT
91. H. Vì sao lòng Chúa thương xót có khả năng liên kết chúng ta với Do Thái Giáo và Hồi Giáo?
T. Vì Công Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo đều coi lòng thương xót là một trong những ưu phẩm của Thiên Chúa.
- Các trang sách Cựu Ước thấm đẫm lòng thương xót, vì thuật lại những kỳ công mà Chúa đã thực hiện cho dân Do Thái vào những thời điểm khó khăn nhất trong lịch sử của họ.
- Còn Hồi Giáo thì luôn kêu cầu Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót và rất mực từ bi, nâng đỡ họ trong những yếu đuối hàng ngày.
92. H. Đức Thánh Cha ước mong Năm Thánh lòng thương xót đem lại những gì cho cuộc đối thoại giữa các tôn giáo cũng như giữa các dân tộc?
T. Đức Thánh Cha ước mong Năm Thánh lòng thương xót:
- Thúc đẩy cuộc gặp gỡ với những tôn giáo và những truyền thống tôn giáo cao quý khác.
- Mở rộng hơn cuộc đối thoại để có thể hiểu biết nhau hơn.
- Xua đi mọi hình thức khép kín và khinh khi lẫn nhau.
- Đẩy lùi mọi hình thức bạo lực và phân biệt đối xử (x. số 23).
KẾT: HƯỚNG VỀ MẸ THƯƠNG XÓT
93. H. Hướng về Đức Ma-ri-a, Mẹ của lòng thương xót, và sống dưới ánh mắt dịu hiền của Mẹ trong Năm Thánh này, chúng ta có thể khám phá lại điều gì?
T. Chúng ta có thể khám phá lại niềm vui vì được Chúa xót thương.
94. H. Đức Ma-ri-a đã trải nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa thế nào?
T. Đức Ma-ri-a đã trải nghiệm sâu xa lòng thương xót của Thiên Chúa qua mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại.
95. H. Được tuyển chọn và chuẩn bị để làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Ma-ri-a kinh nghiệm thế nào về lòng thương xót của Thiên Chúa?
T. Đức Ma-ri-a đã kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa trải qua từ "đời nọ sang đời kia".
96. H. Dưới chân Thập Giá, Đức Ma-ri-a kinh nghiệm thế nào về lòng thương xót của Thiên Chúa?
T. Đức Ma-ri-a đã kinh nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa không có giới hạn và mở ra cho hết mọi người, bất kể họ là ai.
97. H. Hướng về Đức Ma-ri-a trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta cầu xin Mẹ điều gì?
T. Chúng ta xin Mẹ ghé mắt thương xem chúng ta và cho chúng ta được thấy dung mạo của lòng thương xót, là Chúa Giê-su, con của Mẹ.
98. H. Hướng đến thánh Faustina Kowalska, chúng ta xin ngài điều gì?
T. Chúng ta xin ngài chuyển cầu cho chúng ta luôn biết sống và bước đi trong sự tha thứ của Thiên Chúa và trong niềm tín thác vào tình yêu của Ngài (x. số 24).
99. H. Mở Năm Thánh ngoại thường này, Đức Thánh Cha muốn chúng ta làm gì để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa?
T. Mở Năm Thánh ngoại thường này, Đức Thánh Cha muốn chúng ta: hãy để cho Thiên Chúa làm cho mình phải kinh ngạc trước tình yêu của Ngài, Đấng không ngừng mở lòng và ngỏ lời yêu thương chúng ta, Ngài muốn thông truyền sự sống của Ngài cho chúng ta.
100. H. Giáo Hội ý thức thế nào về nhiệm vụ loan báo lòng Chúa thương xót?
T. Giáo Hội ý thức rằng: loan báo lòng Chúa thương xót là nhiệm vụ hàng đầu của mình, đặc biệt trong bối cảnh của một thế giới đầy hy vọng và nhiều mâu thuẫn. Giáo Hội cũng ý thức rằng: đời sống của mình chỉ đích thực và đáng tin khi trở thành chứng nhân của lòng thương xót, qua việc tuyên xưng và sống thương xót như là trọng tâm mạc khải của Chúa Giê-su Ki-tô.
101. H. Tông chiếu kết thúc với những ý nguyện nào?
T. Tông chiếu kết thúc với những ý nguyện này:
- Một là Giáo Hội mong làm vang vọng Lời của Chúa, của sự tha thứ, đỡ nâng, trợ giúp và yêu thương.
- Hai là Giáo Hội trao ban lòng thương xót không mỏi mệt và luôn nhẫn nại để khích lệ và thứ tha.
- Ba là Giáo Hội muốn thành tiếng nói của mọi người, và luôn van xin với niềm tín thác: "Lạy Chúa, xin nhớ lại tình lân ái và lòng thương xót của Chúa, như vẫn có từ ngàn xưa" (Tv 25,6).
102. H. Tông chiếu được ban hành tại đâu và lúc nào ?
T. Tông chiếu được ban hành tại Rô-ma, cạnh đền thờ thánh Phê-rô, ngày 11 tháng 04 năm 2015, năm thứ ba triều giáo hoàng Phan-xi-cô.
103. H. Ngày khai mạc và bế mạc Năm Thánh trong tổng giáo phận Hà Nội là ngày nào?
T. Ngày khai mạc Năm Thánh là ngày 13 tháng 12 năm 2015, tổ chức tại hai địa điểm: Nhà thờ Chính Tòa và Tiểu Vương Cung Thánh Đường Sở Kiện.
Ngày bế mạc Năm Thánh là ngày 20 tháng 11 năm 2016, tổ chức tại nhà thờ Chính Toà.
104. H. Các ngày lễ trong Năm Thánh dành cho các giới trong tổng giáo phận là những ngày nào?
T: Các ngày lễ trong Năm Thánh dành cho các giới:
1/ Ngày cho đời sống thánh hiến (ngày 02.02.2016): tổ chức tại giáo xứ Thái Hà.
2/ Ngày cho các ban HĐMV giáo xứ (ngày 05.3.2016): tổ chức tại nhà thờ Chính Toà.
3/ Ngày cho thiếu nhi – thiếu niên (ngày 24.4.2016): tổ chức tại trung tâm hành hương các thánh tử đạo Sở Kiện.
4/ Ngày cho các linh mục (ngày 03.6.2016): tổ chức tại nhà thờ Chính Toà.
5/ Ngày cho các bệnh nhân và người khuyết tật (ngày 12.6.2016): tổ chức tại trung tâm hành hương các thánh tử đạo Sở Kiện.
6/ Ngày cho giới trẻ (ngày 26.7.2016): tổ chức tại trung tâm hành hương các thánh tử đạo Sở Kiện.
7/ Ngày cho giáo lý viên (ngày 25.9.2016): tổ chức tại nhà thờ Chính Toà.
8/ Ngày cho các gia đình (ngày 08.10.2016): tổ chức tại trung tâm hành hương các thánh tử đạo Sở Kiện.
KINH NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời, và ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa và chúng con sẽ được cứu độ. Ánh mắt đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát ông Gia-kêu và thánh Mát-thêu khỏi ách nô lệ bạc tiền; làm cho người đàn bà ngoại tình và thánh Ma-đa-lê-na không còn tìm hạnh phúc nơi loài thụ tạo; cho thánh Phê-rô khóc lóc ăn năn sau khi chối Chúa, và hứa ban thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải. Xin cho chúng con được nghe những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri-a, như thể Chúa đang nói với mỗi người chúng con: "Nếu con nhận ra hồng ân của Thiên Chúa!" Chúa chính là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, Đấng biểu lộ quyền năng của Ngài trước hết bằng sự tha thứ và lòng thương xót: Xin làm cho Hội Thánh phản chiếu gương mặt hữu hình của Chúa trên trái đất này. Chúa là Đấng phục sinh vinh hiển. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng mặc lấy sự yếu đuối để có thể cảm thông với những người mê muội lầm lạc, xin làm cho tất cả những ai tiếp cận với các ngài đều cảm thấy họ đang được Thiên Chúa quan tâm, yêu mến và thứ tha. Xin sai Thần Khí Chúa đến xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con, để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành năm hồng ân của Chúa cho chúng con; và để Hội Thánh Chúa, với lòng hăng say mới, có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo, công bố sự tự do cho các tù nhân và những người bị áp bức, trả lại ánh sáng cho kẻ mù lòa. Lạy Chúa Giê-su, nhờ lời chuyển cầu của Đức Ma-ri-a, Mẹ của lòng thương xót, xin ban cho chúng con những ơn chúng con đang cầu xin. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Đức giáo hoàng Phan-xi-cô
HỌC HỎI VỀ TIN MỪNG THEO THÁNH LU-CA
1. H. Thánh Lu-ca là ai?
T. Thánh Lu-ca là người Hi Lạp gốc ngoại giáo trở lại đạo Công Giáo. Ngài là môn đệ của thánh Phao-lô trên đường truyền giáo, và là tác giả của sách Tin Mừng thứ 3 và sách Tông Đồ Công Vụ. Theo truyền thống thì thánh Lu-ca rao giảng Tin Mừng tại A-khai-a và chịu tử đạo tại đây. Hằng năm, Giáo Hội mừng lễ kính nhớ ngài vào ngày 18 tháng 10.
2. H. Thánh Lu-ca viết sách của ngài cho nhóm độc giả nào?
T. Là một Ki-tô hữu gốc ngoại giáo, nên thánh Lu-ca viết sách của ngài cho các Ki-tô hữu gốc ngoại giáo.
3. H. Thánh Lu-ca viết sách Tin Mừng và Tông Đồ Công Vụ nhằm mục đích gì?
T. Thánh Lu-ca viết các sách trên nhằm mục đích diễn tả Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và muốn cứu độ mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da hay giai cấp.
4. H. Thánh Lu-ca viết hai cuốn sách trên theo cách nào?
T. Trước tiên, ngài căn cứ vào "những người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa" (Lc 1,1-2) sau đó tự mình "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự" rồi mới đề tặng tác phẩm của mình cho ông Thê-ô-phi-lô với mục đích khẳng định tính chính xác và khả tín của giáo huấn, khiến không ai có thể bắt bẻ hay hoài nghi được điều gì (Lc 1,4).
5. H. Tin Mừng theo thánh Lu-ca gồm bao nhiêu chương và được chia làm mấy phần?
T. Tin Mừng theo thánh Lu-ca gồm 24 chương, được chia làm 5 phần chính:
- Phần thứ nhất nói về thời niên thiếu của Đức Giê-su (chương 1-2).
- Phần thứ hai nói về sứ vụ của Đức Giê-su tại miền Ga-li-lê (chương 3-9).
- Phần thứ ba là hành trình của Đức Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem (chương 9-19).
- Phần thứ bốn nói về sứ vụ của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (chương 19-21).
- Phần thứ năm nói về cuộc thương khó và sự sống lại của Con Thiên Chúa để cứu chuộc nhân loại (chương 22-24).
6. H. Về mặt văn chương, Tin Mừng theo thánh Lu-ca có những đặc điểm nào?
T. Về mặt văn chương, văn phong của thánh Lu-ca rất lưu loát, uyển chuyển. Ngài sử dụng tiếng Hi Lạp rất nhuần nhuyễn, chính xác. Bố cục của sách được ngài sắp xếp hợp lý, liên kết chặt chẽ với những hoàn cảnh cụ thể.
7. H. Về mặt thần học, Tin Mừng theo thánh Lu-ca có những đặc tính nào?
T. Có bảy đặc tính này:
- Thứ nhất là Tin Mừng của ơn cứu độ dành cho muôn dân.
- Thứ hai là Tin Mừng của lòng Chúa thương xót.
- Thứ ba là Tin Mừng về Chúa Thánh Thần.
- Thứ bốn là Tin Mừng của cầu nguyện.
- Thứ năm là Tin Mừng của niềm vui gặp gỡ.
- Thứ sáu là Tin Mừng đặc biệt nói về nữ giới.
- Thứ bảy là Tin Mừng của người nghèo.
8. H. Thánh Lu-ca đã viết gì để chứng minh tính phổ quát của ơn cứu độ?
T. Qua câu chuyện giáng sinh (chương 2), thánh Lu-ca nhấn mạnh Đức Giê-su là "ánh sáng soi đường cho dân ngoại" (Lc 2,31-32). Sau đó, bản gia phả của Đức Giê-su Ki-tô (Lc 3,23-38), lại chứng tỏ rằng Ngài không chỉ là một người gốc Do Thái mà còn là con người hòa chung với cả dòng máu nhân loại. Thêm vào đó, Đức Giê-su còn sai 72 môn đệ đến tất cả các thành để rao giảng Tin Mừng (Lc 10,10).
9. H. Tại sao Tin Mừng theo thánh Lu-ca lại được gọi là Tin Mừng của lòng Chúa thương xót?
T. Vì thánh Lu-ca nói rõ nhất về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với muôn dân khi họ biết thống hối ăn năn quay về với Người, đồng thời thánh nhân còn kể lại ba dụ ngôn đặc biệt nói về việc Chúa thương xót tha thứ cho kẻ lầm đường lạc lối.
10. H. Ba dụ ngôn đó là ba dụ ngôn nào?
T. Ba dụ ngôn đó là: Dụ ngôn người Sa-ma-ri-a tốt lành (Lc 10,29-37), dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10) và dụ ngôn người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32).
11. H. Lòng Chúa thương xót được thánh Lu-ca diễn tả qua dụ ngôn người cha nhân hậu thế nào ?
T. "Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!" Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (X. Thánh Kinh Tân Ước, Nhóm Giờ kinh phụng vụ, 2013, trg 249-250)
12. H. Tại sao Tin Mừng theo thánh Lu-ca lại được gọi là Tin Mừng về Chúa Thánh Thần?
T. Vì thánh Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh đến tác động của Chúa Thánh Thần trong các biến cố liên quan đến Đức Giê-su. Ngài nhập thể do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35). Chúa Thánh Thần linh hứng cho bà Ê-li-sa-bét (Lc 1,41-42) và cụ Si-mê-on (Lc 2,26-28). Sau khi sống lại, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ ở lại Giê-ru-sa-lem để đón nhận Chúa Thánh Thần (Lc 24,49) và Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,1-4).
13. H. Tại sao gọi Tin Mừng theo thánh Lu-ca là Tin Mừng đặc biệt dành cho nữ giới?
T. Vì thánh Lu-ca đã diễn đạt một cách phong phú nét dịu hiền thương mến của Chúa dành cho phái nữ. Ngoài những lời tán dương trong những bài hoan ca của bà Ê-li-sa-bet (Lc 1,30-45), của Mẹ Ma-ri-a (Lc 1,45-55) và của bà An-na (Lc 2,36-38), chúng ta còn tìm thấy tình thương hải hà Chúa dành cho người phụ nữ tội lỗi (Lc 7,36-50), lòng trắc ẩn với bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), mối thân tình của Ngài với hai chị em Ma-ri-a và Mác-ta (Lc 10,38-42) và những lời an ủi dành cho những người phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem đang khóc thương Chúa trên đường thập giá (Lc 23,26-32).
14. H. Tại sao Tin Mừng theo thánh Lu-ca được gọi là Tin Mừng của cầu nguyện?
T. Vì thánh Lu-ca trình bày Đức Giê-su như một người ưa thích cầu nguyện. Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa ở sông Gio-đan (Lc 3,21), nơi thanh vắng (Lc 5,1), trước khi chọn 12 thánh tông đồ (Lc 6,12), dịp biến hình trên núi (Lc 9,29), Ngài hứa cầu nguyện cho thánh Phê-rô (Lc 22,32), cầu nguyện cho những kẻ giết mình (Lc 23,34). Ngoài ra thánh Lu-ca còn kể lại những dụ ngôn liên quan đến việc cầu nguyện: cầu nguyện với thái độ khiêm tốn (Lc 18,9-14), và kiên trì (Lc 11,5-8; 18,1-8).
15. H. Tại sao gọi Tin Mừng theo thánh Lu-ca là Tin Mừng của niềm vui gặp gỡ?
T. Vì trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca có nhiều đoạn nói đến niềm vui khi gặp gỡ. Khởi đầu là niềm vui của thánh Gio-an Tẩy Giả khi còn trong bụng mẹ khi Đức Mẹ gặp gỡ bà Ê-li-sa-bét (Lc 1,41-42), rồi đến niềm vui của những người chăn chiên (Lc 2,1-20), niềm vui của cụ già Si-mê-on (Lc 2,27-32), niềm vui của hai môn đệ trên đường Em-mau (Lc 24,13-35) và cuối cùng là niềm vui của các tông đồ khi hân hoan trở lại Giê-ru-sa-lem (Lc 24,50-53).
16. H. Tại sao gọi Tin Mừng theo thánh Lu-ca là Tin Mừng của người nghèo?
T. Vì thánh Lu-ca đặc biệt yêu mến những người nghèo hèn bé mọn, do đó, ngài có cái nhìn thiếu thiện cảm với những kẻ giàu sang, ngoại trừ ông Gia-kêu thống hối. Chẳng hạn trong Bài ca "Ngợi Khen" (Lc 1,53), trong các mối họa (Lc 6,24-25), lên án những người giàu có cậy dựa vào tài sản (dụ ngôn người phú hộ dại khờ Lc 12,13-21); hoặc vô tâm không để ý đến người cùng khổ (dụ ngôn La-da-rô và ông phú hộ Lc 16,19-31).
17. H. Tại sao gọi thánh Lu-ca là "họa sĩ" về Đức Mẹ?
T. Vì thánh Lu-ca đặc biệt chú trọng đến vai trò của Đức Mẹ Ma-ri-a. Mẹ được Thiên thần Gáp-ri-en truyền tin (Lc 1,26t), Mẹ đi thăm viếng bà Ê-li-sa-bét (Lc 1,39t) và hát bài tri ân cảm tạ (Lc 1,46-55). Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng những biến cố xẩy ra trong đời Chúa Cứu Thế (Lc 2,19). Cuối cùng, Mẹ hiện diện giữa các môn đệ để đón chờ Chúa Thánh Thần ngự xuống (Cv 1,14).
18. H. Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Đức Giê-su đòi buộc các môn đệ điều gì?
T. Đức Giê-su đòi các môn đệ của Ngài phải từ bỏ mọi sự (Lc 9,57-62), đặc biệt là của cải (Lc 12,15-21).
19. H. Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Đức Giê-su đã làm gì khi thấy những người đang buôn bán trong đền thờ?
T. Chúa đã đuổi họ khỏi đền thờ và nói: "Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp" (Lc 19,45-46)
20. H. Khi thuật lại những lần hiện ra của Đức Giê-su sau phục sinh, thánh Lu-ca nhằm mục đích gì?
T. Thánh Lu-ca muốn chứng tỏ rằng, Đức Giê-su đã sống lại thật. Đó là tâm điểm của Đức Tin Ki-tô giáo. Vì như thánh Phao-lô quả quyết: "Nếu Đức Ki-tô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15, 14).
BAN NĂM THÁNH VÀ BAN GIÁO LÝ
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn