ĐỪNG SỢ KHI NHẬN RA MÌNH YẾU ĐUỐI
“Biết mình nhỏ bé,
biết mình đang cần ơn cứu độ,
là điều thiết yếu để đón nhận Chúa.
Đó là bước đầu tiên để mở lòng với Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta thường quên điều đó.
Trong giàu có, sung túc, chúng ta có ảo tưởng
chúng ta có thể tự lo cho chính mình, không cần đến Chúa.
Đó là sự lừa dối, bởi vì mỗi chúng ta là một người bé nhỏ,
cần được trợ giúp.
Chúng ta phải tìm ra chính sự bé nhỏ của mình và nhận ra nó.
Và ở đó, chúng ta sẽ tìm thấy Chúa Giêsu.
Chúa sẽ giúp chúng ta theo cách tốt nhất của Ngài”
(ĐGH Phanxicô)
1.
Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích chiếm được địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa
2.
Tội phô trương hiếu danh
Milton là một lực sĩ nổi danh thế kỷ thứ 6 trước công nguyên đã từng đoạt được nhiều chiến thắng oanh liệt tại các cuộc tranh tài Thế Vận Hội ở Hy Lạp. Vì anh sinh trưởng ở vùng Crotone nên người ta quen gọi anh là Milton thành Crotone.
Anh có một thân hình rắn chắc và một sức mạnh khủng khiếp. Một lần kia, anh đã nhấc bổng cả một con bò mộng lên cao khỏi đầu, mang đi một đoạn đường độ 120 bước, sau đó bỏ xuống đấm chết nó bằng một quả thôi sơn.
Thế rồi một hôm, khi ngang qua một khu rừng, anh bắt gặp một thân cây đã nứt dọc thành một đường chẻ dài từ chỗ chạc xuống đến gần gốc. Vì thấy lúc ấy đang có mặt một số bạn bè từng hâm mộ sức khỏe của mình, Milton bèn muốn khoe khoang, và muốn dùng thần lực để tách đôi thân cây ấy bằng chính bàn tay cứng như sắt của mình.
Anh ta xuống tấn, lấy thế, rồi bất ngờ chém mạnh cạnh bàn tay của mình vào chỗ chạc ba. Tức thì thân cây bị tẽ ra làm hai phần y như bị một nhát rìu chẻ dọc. Thế nhưng, ngay sau đó, hai phần thân ấy lại khép cứng lại ở phần sát gốc, đâm ra Milton bị kẹp luôn cánh tay ở giữa, không tài nào rút ra được.
Cánh bạn bè mới đây còn hoan hô hò reo vang trời, bây giờ thấy sự thế bất ngờ như thế, hốt hoảng cho là có thần linh nào đó ở thân cây cổ thụ này đã trừng phạt Milton, nên họ vội vàng bỏ chạy hết.
Thế là chàng lực sĩ Milton khốn khổ đã trở thành nạn nhân cho chính cái tội phô trương hiếu danh của mình. Anh đã bị bỏ rơi lại một mình giữa rừng, cho đến khi trời đêm buông xuống, đành chịu làm mồi ngon cho thú dữ.
3.
Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau:
Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, ngài thấy một người hành khất xin giúp đỡ. Động lòng thương, ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước khi ăn tiệc, ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, khi Abraham quì cầu nguyện, ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau: “Này Abraham, ngươi có biết người ăn mày đó đã nhục mạ Ta 50 năm qua không? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa ăn sao?”.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một người cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau.
4.
Tấm lòng của cả một gia đình nghèo
Mùa đông vừa qua đi, tuyết tan làm cho con sông Inn ở Thụy Sĩ dâng cao, mực nước tràn sang hai bờ, gây ra nạn lụt tàn phá dữ dội các ngôi làng quanh đó.
Các tổ chức từ thiện ngay sau đó đã đứng ra lạc quyên cứu trợ. Có một nhóm lạc quyên khi đi ngang qua nhà một gia đình bà góa nọ, đứng lại ngoài cửa rồi ngần ngại bảo nhau:
- Thôi, chúng ta sang quyên góp nhà khác, gia đình này vốn đã quá nghèo rồi.
Thế nhưng, bà góa ở trong nhà thoáng nghe biết, đã vội chạy ra, giữ đoàn quyên góp lại, lần mãi trong chiếc ví cũ rách để đưa cho họ một đồng 20 xu. Bà nói một cách chân thành:
- Xin quí vị cho tôi được đóng góp chút ít, vì dẫu sao tôi cũng còn có được một mái nhà tranh, còn có giường gỗ cho các con tôi nằm trong khi những người bị nạn lụt thì chẳng còn gì cả.
Nhóm đi lạc quyên xúc động, nhận đồng 20 xu, trân trọng bỏ vào thùng, và không quên cám ơn bà. Họ vừa định quay gót thì một bé gái trong nhà vội chạy theo và nói:
- Các bác ơi, chị em chúng cháu vừa tìm ra thêm một đồng 10 xu để dành đã lâu, các bác cho chúng cháu gởi tặng những bạn nhỏ xấu số của chúng cháu nhé.
Mọi người không cầm được nước mắt trước tấm lòng giàu tình nhân ái của cả một gia đình nghèo
5.
Đi tìm chén thánh
Có một câu chuyện huyền thoại về “người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh, mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa, sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ.
Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
6.
Đại bàng con
Chuyện kể rằng: Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ:
- Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời?
- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
- Thế chúng ta là ai?
- Chúng ta là gà rừng.
Bỗng một ngày, đang khi bươi móc kiếm ăn trên đống rác, cậu thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi:
- Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này. Bay lên đi con!
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
- Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng, sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem.
Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
Kitô hữu là người được Thiên Chúa chọn, làm con cái của Ngài. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô: ”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
7.
Cha Sở và Cha Phó
Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có cha Sở và Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia quí Cha Phó, vì ngài còn trẻ và năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:
- Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dày, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ minh, bỏ đi công lao cha xây dựng? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời:
- Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn?
- Cha Phó.
Cha Sở chậm rãi nói tiếp:
- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi, một người đáng lẽ đã về hưu?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:
- Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn cả Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp:
- Và tôi cũng đã được người ta quí mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.
8.
Ngày xưa, vua Ali nhận thấy tình trạng tham nhũng càng ngày càng gia tăng trong vương quốc của mình. Vua tìm đến một nhà đạo sĩ nổi tiếng là khôn ngoan nhất để tham khảo ý kiến và có lời yêu cầu như sau:
- Xin đạo sĩ giúp tôi một phương thế để biết rõ ai là kẻ tham nhũng, hối lộ nhất để tôi có thể canh tân việc trị nước.
Đạo sĩ liền trao cho vua Ali một bình rượu thần với lời dặn như sau:
- Xin ngài hãy hoà chút rượu này vào trong thức ăn hay nước uống của những ai mà ngài muốn biết về tình trạng tham nhũng hối lộ hay không của họ. Khi dùng rượu này thì người nào tham nhũng hay hối lộ thì tự nhiên sẽ có hai cái sừng mọc ra ở trên trán. Tội càng nặng thì 2 cái sừng mọc càng dài.
Vừa về đến hoàng cung nhà vua đã tức tốc ra lệnh cho mời các quan văn võ trong triều đình đến để dự tiệc, và trước đó nhà vua đã cho người thân tín pha rượu của nhà đạo sĩ vào các đồ ăn thức uống đã được dọn sẵn.
Sau khi đã dùng, thì quả đúng như lời nhà đạo sĩ nói: trên trán mỗi vị quan văn quan võ trong triều đình đều có hai cái sừng mọc ra, kẻ dài người ngắn khác nhau tuỳ theo tội của họ…..làm cho mọi người hết sức kinh ngạc. Nhà vua thấy vậy thì nổi giận đứng lên tuyên bố:
- Hôm nay ta mới biết lòng dạ của mỗi người. Hai cái sừng mọc ra trên trán đó là dấu chỉ hiển nhiên của hành động tham nhũng hối lộ các ngươi đã phạm. Vị đạo sĩ trên núi đã trao cho ta một bình rượu thần. Kẻ nào hối lộ tham nhũng mà uống vào thì sẽ có hai cái sừng mọc ra ở trên trán như các người đã thấy, dài hay vắn là tuỳ tội nặng hay nhẹ.
Nói đến đây, nhà vua hãnh diện chờ xem phản ứng của các quan như thế nào và ngay sau đó thì chính nhà vua cũng bưng ly rượu lên uống. Trớ trêu thay, đây cũng là ly rượu có pha rượu thần mà người làm bếp đã lén pha vào, và mọi người đều được một phen cười đến bể bụng, phá tan hết sự im lặng nặng nề trong hoàng cung lúc đó khi họ thấy trên trán của nhà vua cũng vừa có hai cái sừng mọc ra và hơn nữa còn là hai cái sừng dài nhất.
Ca dao Việt Nam của chúng ta có nhiều câu rất hay:
Cười người chớ có cười lâu
Cười người hôm trước hôm sau người cười.